HO CHI MINH

I.Câu Hỏi Ngắn:

1.Lộ trình của HCM từ khi rời Nghệ An đến Nhà Rồng là:

   – Huế: 1096- 5/1909;

   – Bình Định: 5/1909- 8/1910;

   – Bình Thuận: 8/1910- 2/1911;

   – Sài Gòn: 2/1911- 5/6/1911.

2.Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc được xuất bản đầu tiên vào năm 1925 ở Pari, lần đầu tiên ở Việt Nam bằng tiếng Pháp vào năm 1946 và lần đầu tiên ở Việt Nam bằng tiếng Việt vào năm 1960.

3.Khái niệm “Nhà nước của dân, do dân, vì dân” được HCM sử dụng lần đầu tiên vào năm 1927.

4.Quan điểm: “Chúng ta phải đấu tranh cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy” của HCM lần đầu tiên được biết đến vào năm 1914.

5.Quan điểm “ dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư tưởng HCM lần đầu tiên được biết đến vào ngày 31/5/1946.

6.Đến Liên Xô, lần đầu tiên HCM biết đến “ Chính sách kinh tế mới” của Lênin vào năm 1923.

7.Lần đầu tiên HCM đưa ra khái niệm về Văn hóa trong Mục đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù( 1942- 1943): “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích  ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.

8.Hồ Chí Minh lần đầu tiên bước lên vũ đài chính trị thế giới bằng sự kiện gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm đến Hội nghị Vécxây năm 1919.

9.Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho những người VN yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Vécxây Bản yêu sách gồm 8 điểm của nhân dân An Nam.Nội dung cơ bản của Bản yêu sách này gồm những Vấn đề sau:

Đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như đối với Châu Âu, xóa bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế độ đạo luật;

Đòi quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho nhân dân An Nam.

10.Theo HCM mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN là mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu phải tiến lên xây dựng 1 chế độ XH mới có “ công, nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến” với 1 bên là tình trạng lạc hậu phải đối phó với bao thế lực cản trở, phá hoại mục tiêu của chúng ta.

11.Năm 1921, cùng với 1 số người yêu nước của các nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Liên Hiệp thuộc địa.Hội này xuất bản tờ báo “Người cùng khổ ( Le Paria) vào tháng 4/1922.

12.Theo HCM, trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, nền văn hóa ở nước ta có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng.

13.Vấn đề dân tộc trong tư tưởng HCM trong thời đại cách mạng vô sản là Vấn đề dân tộc thuộc địa.

14.Cơ sở  đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc là cơ sở tinh thần yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng dân tộc của dân tộc Việt Nam.

15.Quan điểm về 1 mô hình nhà nước:“ Dựng ra chính phủ công nông binh” được Hồ Chí Minh xác định vào năm 1930.

16.Hồ Chí Minh ví chủ nghĩa đế quốc như hình tượng 1 con đỉa có 2 cái vòi bám và hút máu ở thuộc địa và chính quốc.Theo người, muốn tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc thì phải đồng thời cắt bỏ cả 2 vòi, 1 ở chính quốc và 1 ở thuộc địa.

17.Quan điểm và 1 mô hình nhà nước: “lập chính phủ dân chủ cộng hòa” được Hồ Chí Minh xác định vào năm 1941.

18.Hồ Chí Minh đề cập đến con người theo phạm vi và nhiều nghĩa rộng, hẹp khác nhau.Theo đó, ở nghĩa rộng, Người dung khái niệm đồng bào cả nước; ở nghĩa hẹp là “gia đình, anh em họ hàng, bầu bạn”; ở nghĩa rộng nhất là loài người.

19.Trong tư tưởng HCM về đạo đức, Người ví “ Cần với Kiệm phải đi đôi với nhau” như hai chân của con người.

20.Trong tư tưởng HCM về đạo đức, theo Người, chính đối với mình thì phải không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.

21.Lý thuyết lục hòa là 1 trong những cơ sở lý luận quan trọng góp phần hình thành tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc.Lý thuyết này do học thuyết Phật giáo khởi xướng.

22.Lý thuyết “ đại đồng ” là 1 trong những cơ sở lý luận góp phần hình thành tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc, về CNXH.Lý thuyết này do học thuyết Nho giáo khởi xướng.

23.Tư tưởng “ nước lấy dân làm gốc” do học thuyết Nho giáo khởi xướng.

24.Theo Hồ Chí Minh, học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân; chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.

25.Quan điểm của HCM khi Người đánh giá về tổ chức“ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là quả trứng, mà từ đó nở ra con chim cộng sản và là cơ sở cho một Đảng lớn hơn.

26.Theo HCM, “ giặc nội xâm” gồm có những loại: tham ô, lãng phí, quan liêu.

27.Khi đề cập đến mối quan hệ giữa đức và tài được thể hiện trong yêu cầu đối với người cách mạng, Hồ Chí Minh còn dùng những khái niệm: hồng và chuyên; hiền và minh.

28.Sự kiện đánh dấu sự hình thành về cơ bản tư tưởng HCM về con đường cách mạng VN là đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương của LêNin về những Vấn đề dân tộc và thuộc địa (tháng 7/1920).

29.Nội dung cốt lõi trong tư tưởng HCM là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

30.Theo quy chế, việc thi tuyển công chức bao gồm: chính trị, kinh tế, pháp luật, địa lý, lịch sử và ngoại ngữ.( HCM ký sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950- Quy chế công chức).

31.Vấn đề được HCM bổ sung vào cơ sở lịch sử của CN Mác là dân tộc học phương Đông.

32.Theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH.

33.Theo Hồ Chí Minh, bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta biểu hiện ở những nội dung:

  • Nhà nước ta do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo;
  • Bản chất giai cấp thể hiện ở định hướng đưa đất nước ta đi lên CNXH;
  • Bản chất giai cấp của nhà nước ta còn thể hiện ở nguyên tắc tổ chức cơ bản là nguyên tắc tập trung dân chủ.

34.Theo Hồ Chí Minh, trong thời kỳ cách mạng XHCN , nền văn hóa VN thể hiện ở những tính chất: tính XHCN về mặt nội dung và tính dân tộc về hình thức.

35.Trong các cách tiếp tận CNXH dưới đây, cách tiếp cận thể hiện sự giống nhau giữa HCM với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin là tiếp cận tư tưởng về CNXH từ phương diện kinh tế.

36.Nhận thức về CNXH ở HCM là kết quả tác động tổng hợp của các nhân tố: Truyền thống và hiện đại; Dân tộc và quốc tế; Kinh tế, chính trị, đạo đức và văn hóa.

37.Theo Hồ Chí Minh, nền kinh tế XHCN mà Người phác họa trong tương lai có những hình thức sở hữu:

  • Sở hữu nhà nước( tức sở hữu toàn dân);
  • Sở hữu tập thể, sở hữu của những người lao động riêng lẻ( kinh tế cá thể);
  • Sở hữu của các nhà Tư bản.

38.Đề tài nghiên cứu của HCM ở lớp nghiên cứu sinh do Viện nghiên cứu các Vấn đề dân tôc và thuộc địa mở vào năm 1937. Đề tài nghiên cứu có tên là “ Cách mạng ruộng đất ở Đông Nam Á”

39.Khi ở cương vị chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã ký công bố 16 đạo luật và 613 sắc lệnh.

40.Ngày 3/9/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, HCM xác định 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước VNDCCH.Trong 6 nhiệm vụ cấp bách đó, nhiệm vụ thứ ba là chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ.

41.Khái niệm Nhà nước của dân, do dân, vì dân do A.Lincôn( Tổng thống Mỹ cuối thế kỷ 19) đưa ra.

42.Lý luận cách mạng bạo lực của HCM gồm có những nội dung cơ bản:

  • Bạo lực cách mạng VN là sức mạnh tổng hợp của toàn dân, bao gồm sức mạnh tổng hợp của cả 2 yếu tố, của 2 lực lượng: Chính trị và quân sự;
  • Cách mạng bạo lực là dùng sức mạnh tổng hợp đó để giành chính quyền và giữ chính quyền;
  • Tùy tình hình cụ thể mà quyết định hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị cho phù hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp 2 hình thức đấu tranh đó để giành thắng lợi cho cách mạng.

43.Theo Hồ Chí Minh, động lực quan trọng và quyết định nhất của CNXH chính là con người, nhân dân lao động, nòng cốt là công- nông- trí thức.

44.Tư tưởng HCM về Đảng CSVN hình thành dựa trên các yếu tố lý luận: Học thuyết của Mác về Đảng cộng sản và trực tiếp là học thuyết về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, đã được Lênin đưa ra từ những năm đầu của thế kỷ 20.

45.Theo Hồ Chí Minh, tổ chức thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất.

46.Trong quan niệm về con người, ở góc độ xem xét các quan hệ XH, HCM chia con người ra 2 giống người: Những người làm điều thiện và những người làm điều ác.

47.Tư tưởng Hồ Chí Minh về Vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học đúng đắn vừa có tính chất cách mạng sâu sắc.Tư tưởng này thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các yếu tố:

  • Dân tộc và giai cấp;
  • Chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng;
  • Độc lập dân tộc cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho các dân tộc khác.

48.Theo Hồ Chí Minh, những giai cấp ủng hộ và tham gia cách mạng tức là bầu bạn cách mạng của công nông.

49.Trong bài Nói chuyện tại lớp chuẩn huấn khóa II của Bộ Công an, ngày 16/5/1959, HCM ví tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân như hai yếu tố: như lúa với cỏ dại.

50.Theo HCM, nguyên nhân gây nên bệnh chủ quan là: kém lý luận; khinh lý luận; lý luận suông.

51.Để xây dựng CHXN ở VN trong thời kỳ quá độ, HCM nêu lên 2 nguyên tắc:

  • Một là, xây dựng CNXH là 1 hiện tượng phổ biến mang tính quốc tế, cần nắm vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng chế độ mới, phải học tập kinh nghiệm của các nước anh em nhưng không áp dụng máy móc vì nước ta có đặc điểm riêng của ta.
  • Hai là, xác định bước đi, biện pháp phải xuất phát từ thực tế, đặc đểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân.

52.Theo đúng tư tưởng HCM, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân là liên minh công- nông và lao động trí óc.

53.Tiếp xúc, tìm hiểu, nghiên cứu các cuộc CM trên Thế giới: cách mạng Mỹ, cách mạng tư sản Pháp và các kiểu, các hình thức nhà nước mà những cuộc cách mạng này xây dựng sau khi CM thành công, HCM đi đến kết luận đó là những cuộc CM chưa đến nơi, chưa triệt để.

54.Theo HCM, lộ trình của các cuộc cách mạng ở nước lệ thuộc và thuộc địa là: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và loài người.

55.Quan điểm đúng khi đề cập đến nội dung tư tưởng HCM về lĩnh vực văn hóa văn nghệ: Văn nghệ là 1 mặt trận, văn nghệ sỹ là chiến sỹ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh CM, trong xây dựng XH mới, con người mới; Văn nghệ phải gắn với thực tiễn đời sống nhân dân; Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước và của dân tộc.

56.Khi đề cập đến mối quan hệ giữa “ tập thể lãnh đạo ” và  “ cá nhân phụ trách ” HCM đã dùng 2 khái niệm để diễn đạt ý nghĩa tương đương là: Dân chủ và tập trung.

II.Câu Hỏi Dài:

Vấn đề 1: Sự hình thành và những đặc điểm cơ bản của tư tưởng HCM.

Đã một thế kỷ trôi qua kể từ ngày 5 tháng 6 năm 1911, ngày Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc để bắt đầu một cuộc hành trình dài khảo sát xem các dân tộc khác làm như thế nào trong đấu tranh giành độc lập rồi trở về vận dụng để giải phóng dân tộc Việt Nam.Cái ngày lịch sử ấy đã đi sâu vào lòng người của bao thế hệ người Việt Nam và thế giới với biết bao tình cảm chứa chan, rung động: Khi tôi còn là hạt bụi, Người đã lên tàu đi xa; từ thành phố này Người đã ra đi (lời của những bài hát); Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi, cho tôi (nhà thơ Chế Lan Viên) làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác hay như nhà báo người Úc là Bocset đã nói: “Nói tới một người cả cuộc đời mình để lại ân tình sâu nặng trong nhân dân thì không có ai ngoài chủ tịch HCM” vì “HCM đã sống một cuộc đời với những tầm cỡ phi thường và đã có những cống hiến sâu sắc cho sự nghiệp giải phóng loài người. Chính lẽ đó đã làm cho tiểu sử của Người trổ thành bài ca chi niềm vinh quang đối với triển vọng và khả năng của con người…”.Hơn thế nữa, cái ngày lịch sử ấy còn là ngọn nguồn cho một Việt Nam hiện đại đang chuyển mình, cất cánh hôm nay.

Trở về để bay xa hơn, đế thấu được, cảm được, nghe được trái tim, trí tuệ và nghị lực phi thường của một thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, của một Bác Hồ kính yêu, của một tư tưởng HCM vĩ đại, tư tưởng của một con người có con mắt đại bàng của tư duy (nói theo cách nói của Hegel), có sự nhạy cảm đặc biệt đối với lịch sử, thấu hiểu cuộc sống con người, có nhận thức sâu về vận mệnh dân tộc, nỗi niềm của nhân dân và hướng đi của thời đại.

Trước ngày 5/6/1991, có thể tóm tắt lộ trình của Nguyển Tất Thành từ khi rời Nghệ An đến Nhà Rồng là: Huế (1906 – 5/1909) – Bình Định (5/1909 -8/1910) – Bình Thuận (8/1910 – 2/1911) – Sài Gòn (2/1911 – 5/6/1911).Tại Sài Gòn trước khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước trên con tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin Nguyễn Tất Thành đã từng ở tạm tại trụ sở các chi nhánh của Liên Thành công ty đặt tại Sài Gòn, như nhà số 3, đường Tổng đốc Phương (nay là số 5, đường Châu Văn Liêm, Di tích số 5 Châu Văn Liêm được Bộ văn hóa ký quyết định công nhận là di tích lịch sử số 1288-VH/QĐ ngày 16/11/1988); nhà số 128, Khánh Hội.

Và rồi ngày 5/6/1911 đã đến, Người bắt đầu cuộc hành trình sang phương Tây.Về mục đích của chuyến đi này, năm 1923 Người đã trả lời một nhà báo Nga rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái…Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”.Một lần khác trà lời một nhà văn Mỹ, Người nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp.Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ.Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ.Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.

Một hành trình dài qua nhiều nước (Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây, Xênêgan, Rêuyniông, Máctiních (Trung Mỹ), Uragoay và áchentina (Nam Mỹ), Mỹ, Anh …): lao động bằng nhiều nghề để tồn tại; hoạt động chính trị để rút kinh nghiệm, học tập, nghiên cứu tìm tòi, khám phá rồi vận dụng…đến năm 1917 khi cuộc cách mạng XHCN thàng Mười Nga nổ ra và thành công, một cuộc cách mạng đến nơi và triệt để, ánh sáng của nó lan tỏa khắp nơi và đến với chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành: “Như ánh mặt trời rạng đông xua tan bóng tối, cuộc cách mạng Tháng Mười đã chiếu rọi ánh sáng mới vào lịch sử loài người”.Không bỏ qua cơ hội, Người quyết tâm tìm hiểu cuộc cách mạng này và tìm hiểu Lênin.Có thể khẳng định đây là bước ngoặt nhận thức đầu tiên trong hành trình tìm con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Tất Thành.Bước ngoặt nhận thức này thể hiện ở chỗ từ thất bại của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc cũng như sự thành công của cách mạng XHCN tháng Mười Nga đã mang lại cho Nguyễn Tất Thành nhận thức quan trọng, tạo tiền đề cho việc xác định đúng con đường cách mạng Việt Nam: Ở những năm đầu thế kỷ XX, chỉ có những phong trào cách mạng nào có mục tiêu giải quyết đồng thời những mâu thuẫn lớn của thời đại ở nước mình thì mới có thể đi tới thắng lợi.

Đến năm 1919, bằng sự kiện gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Hòa bình được tổ chức tại Véc xây (Pháp), Nguyễn Ái Quốc đã lần đầu tiên bước lên vũ đài chính trị của thế giới để đòi những quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam: quyền tự do dân chủ tối thiểu và quyền bình đẳng về chế độ pháp lý.Những yêu cầu này đã chưa được chấp nhận lúc bấy giờ, từ đó Người rút ra bài học kinh nghiệm đầu tiên: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, các dân tộc phải dựa vào sức mình là chính, không ỷ lại hay trông chờ vào sự giúp đỡ của các dân tộc khác.Bài học này sau đó đã được Người nâng lên tầm lý luận về tự lực cánh sinh: Một dân tộc tộc mà trông chờ vào sự giúp đỡ của dân tộc khác trong công cuộc giải phóng chính mình thì dân tộc đó không xứng đáng được độc lập, tự do: “Sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác.Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.Từ sự kiện này, lần đầu tiên bút danh Nguyễn Ái Quốc chính thức được sử dụng.

Không nản chí, Người tiếp tục đấu tranh, tiếp tục hoạt động, nghiên cứu lý luận, đến năm 1920, tờ báo Nhân đạo – cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Pháp đã cho đăng bài viết của Lênin: Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các Vấn đề dân tộc thuộc địa, số ra ngày 16, 17 tháng 7/1920.Đọc sơ thảo ấy, Người đã phát hiện và tìm ra được con đường đi cần thiết cho cách mạng Việt Nam và khẳng định: đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là cái giải phóng dân tộc ta: “trong luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu.Nhưng cứ đọc đi, đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính.Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên.Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta.Đây là con đường giải phóng chúng ta”.

Con đường ấy là con đường làm cách mạng vô sản: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.Đó là niềm vui đầu tiên của một chiến sĩ cách mạng An Nam – Nguyễn Ái Quốc trong hành trình gian khổ tìm con đường giải phóng dân tộc.Tiếp theo đó là sự kiện Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và bỏ phiếu tán thành việc thành lập Quốc tế thứ 3 (Quốc tế cộng sản) do Lênin sáng lập đã đánh dấu 1 bước ngoặt quan trọng thứ hai trong nhận thức: từ lập trường của chủ nghĩa yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã chuyển sang lập trường vô sản quốc tế: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thư 3.Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.Chính những sự kiện của năm 1920 về cơ bản đã đánh dấu sự ra đời của tư tưởng HCM.

Tiếp tục nghiên cứu lý luận của Lênin, rồi nghiên cứu lý luận của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác: Mác, Ăngghen, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: chỉ có chủ nghĩa Mác – Lênin mới có thể giải phóng dân tộc ta khỏi ách nô lệ lầm than.Chủ nghĩa ấy như kim chỉ nam, như chiếc túi thần kỳ, như ngọn đèn pha, như mặt trời soi sáng cho con đường cách mạng Việt Nam: “Chủ nghĩa Mác – Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới CNXH và chủ nghĩa cộng sản.

Không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc còn biết tiếp thu, chắt lọc những tinh hoa lý luận của nhân loại cùng với việc kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc để hình thành đầy đủ một tư tưởng HCM mang đậm chất Việt Nam.

Khẳng định tư tưởng HCM mang đậm chất Việt Nam là dựa trên các cơ sở sau:

Thứ nhất, xuất phát điểm của tư tưởng ấy là từ thực tiễn xã hội Việt Nam cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX: dân chúng lầm than, cơ cực vì sự dày xéo của thực dân và sự nổ lực vươn lên đấu tranh giành độc lập là chưa thực hiện được vì sự bế tắc về đường lối cứu nước lúc bấy giờ dẫu rằng tinh thần và nhiệt huyết của dân tộc là rất cao: sẵn sàng đúc gan sắt để dời non lấp bể, xối máu nóng để rửa vết nhơ nô lệ song vẫn trăm thất bại mà chư có một thành công.

Thứ hai, xuyên suốt tư tưởng ấy là tinh thần “dĩ vất biến, ứng vạn biến” (quan điểm này của HCM được biết đến vào ngày 31/5/1946) cho phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Thứ ba, cốt lõi và đích đến cuối cùng của tư tưởng ấy là một Việt Nam độc lập và CNXH cùng với một tinh thần quốc tế trong sáng.

Tư tưởng HCM mang đậm chất Việt Nam là một hệ thống gồm ba đặc điểm cơ bản sau:

Một là, sự kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc như: chủ nghĩa yêu nước và ý chí đấu trang kiên cường, bất khuất của dân tộc; ý thức nhân nghĩa, thủy chung, đoàn kết; tinh thần lạc quan yêu đời; những phẩm tính anh dũng trong đấu trang, cần cù trong lao động sản xuất, ham học hỏi và sáng tạo trong học tập…

Những giá trị truyền thống này đã thấm sâu và giữ vai trò chủ đạo trong nhận thức và hành động của HCM tiêu biểu như:

* Tinh thần lạc quan thể hiện trong “Ngục trung nhật ký”, dù điều kiện hoàn cảnh tring tù là vô cùng khắc nghiệt dong vẫn ngắm trăng soi ngoài cửa sổ vì cảnh đẹp đêm nay khó hửng hờ.

* Tinh thần lạc quan còn thể hiện trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam thời kỳ ở Việt Bắc: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng, cuộc đời cách mạng thật là sang.

* Tinh thần kiên cường, bất khuất trong cách mạng Tháng Tám: dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết tâm giành cho được độc lập dân tộc, cũng như trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến năm 1946: chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

* Tinh thần yêu nước, thương dân: không có gì quý hơn độc lập tự do (17/7/1966), ham muốn tột bậc là làm sao cho nước Việt Nam hoàn toàn giải phóng, nhân dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành; nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi.

Hai là, sự tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa của nhân loại ở cả phương Đông và phương Tây.

Ở phương Đông, HCM chủ yếu tiếp thu có chọn lọc hệ tư tưởng lớn: Phật giáo và Nho giáo.HCM nói: tuy Khổng Tử là phong kiến nhưng trong học thuyết của ông có nhiều ưu điểm vì thế chúng ta phải nên học; Học thuyết của Nho giáo có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân; còn Học thuyết của Phật giáo có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả.Ngoài ra, Người còn tiếp thu Học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc): Chủ nghĩa tam dân (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) có ưu điểm vì chính sách của nó phù hợp với Việt Nam.Chính sự tiếp thu, chắt lọc tinh hoa tư tưởng văn hóa phương Đông đã tạo nên những nét đặc sắc trong tư tưởng HCM.

Ở phường Tây, HCM chủ yếu tiếp thu tư tưởng tiến bộ của các nhà khai sáng (Pháp) như Rousseau, Voltair, Montesquieu với tư tưởng chủ đạo là: tự do, bình đẳng, bác ái.Ngoài ra, Người còn tiếp thu những tư tưởng về dân chủ pháp luật, nhà nước và con người ở phương Tây như: Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776), Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1791) hay tư tưởng về một nhà nước của dân, do dân, vì dân của Abraham Lincoln (Tổng thống thứ 16 trong lịch sử Hoa Kỳ),…

Ba là, dự vận dụng sáng tạo Học thuyết Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định: các nguyên lý không phải là điểm xuất phát của quá trình nghiên cứu mà là điểm kết thúc của quá trình nghiên cứu.Không phải giới tự nhiên và loài người phải phù hợp với các nguyên lý mà ngược lại các nguyên lý phải phù hợp với giới tự nhiên và loài người.Xuất phát từ đó, HCM cho rằng Học thuyết Mác – Lênin phải được vận dụng phù hợp với Việt Nam: “Lý luận không phải là cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ta từ trong thực tiễn sinh động”.

Sự vận dụng phù hợp ấy đã được HCM thể hiện bằng một loạt các quan điểm sáng tạo đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm chứng góp phần bổ sung, phát triển và hoàn bị Học thuyết Mác – Lênin.Tiêu Biểu như:

* Khẳng định chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn trong đấu trang giành độc lập và phát triển đất nước.

* Giải quyết Vấn đề dân tộc trên lập trường giai cấp.Theo đó, trong mối quan hệ giữa Vấn đề dân tộc và giai cấp, Người cho rằng giải quyết Vấn đề dân tộc là trước hết ở Việt Nam, là điều kiện để giải quyết Vấn đề giai cấp.Xuất phát từ phát hiện này, người cho rằng muốn tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc thì phải đồng thời tiến hành song song, chủ động cả hai cuộc cách mạng: cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở các quốc gia lệ thuộc, thuộc địa và khẳng định cuộc cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành chủ động, có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.

* Quan điểm khằng định về sự ra đời của tổ chức Đảng Cộng sản ở các quốc gia lệ thuộc và thuộc địa: Đảng Cộng sản Đông Dương là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.

* Quan điểm khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân đồng thời cũng là Đảng của dân tộc Việt Nam.

* Quan điểm liên minh các dân tộc phương Đông là một trong những cái cách của cách mạng vô sản trong quan điểm về đoàn kết quốc tế.

* Tiếp cận học thuyết CNXH từ phương diện nhu cầu và khát vọng giải phóng dân tộc, con người một cách triệt để; phương diện đạo đức (thắng lợi CNXH không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu trang trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân).

Chân lý luôn là cụ thể, cách mạng luôn là sáng tạo.Sự sáng tại cách mạng của HCM trước hết là sự sáng tạo về tư duy lý luận, về chiến lược về đường lối cách mạng Việt Nam.

Ba đặc điểm trên khẳng định sự ra đời của tư tưởng HCM là có cơ sở khách quan và phản ánh đúng chân lý: Không một tư tưởng nào lại ra đời trên một mảnh đất trống không mà bao giờ nó cũng ra đời trên một mảnh đất hiện thực.Trên mảnh đất hiện thực, nó kế thừa những gì có giá trị, hợp lý đồng thời chọn lọc và bổ sung vào đó những nhân tố mới.Đồng thời nó cũng được xác định là ba bộ phận cơ bản thuộc nội hàm của khái niệm tư tưởng HCM.Nhiệm vụ chung của ba bộ phận này là vạch ra lý thuyết về con đường cách mạng Việt Nam đúng đắn nhằm mục đích giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và tiến tới giải phóng con người và loài người.

Ngày 5/6/2011 là kỷ niệm 100 năm ngày HCM bắt đầu cuộc hành trình cứu nước.Cuộc hành trình ấy đã mang về cho dân tộc Việt Nam một quá khứ kiêu hãnh, tự hào; một hiện tại đầy sức sống; một tương lai phồn vinh và mãi mãi thấm sâu trong tâm thức của mỗi người Việt Nam và nhân dân tiến bộ trên thế giới một HCM vĩ đại, một tư tưởng tưởng HCM bất diệt, không khép kín, không tự đủ mà luôn phát triển cùng với sự phát triển của dân tộc và thế giới.Tư tưởng ấy “sẽ mãi mãi gắn bó với những hành động cao cả nhất và những ước mơ cao quý nhất của nhân loại”.

Vấn đề 2: Cơ sở hình thành và quá trình xác lập mô hình Nhà nước mới ở Việt Nam trong tư tưởng HCM về Nhà nước.

1.Cơ sở hình thành tư tưởng HCM về Nhà nước mới Việt Nam:

1.1 Cơ sở thực tiễn và sự khảo nghiệm:

Từ thực tiễn hình thái nhà nước Việt Nam đương thời: nhà nước phong kiến Việt Nam và nhà nước tư sản (dưới sự cai trị của chính quyền tư sản – thực dân Pháp) đã gây cho nhân dân một cuộc sống cơ cực về kinh tế, bị chà đạp về nhân phẩm,…HCM đi đến khẳng định: nhà nước Việt Nam sau khi giành được độc lập không mang bản chất phong kiến và tư sản.

Tiếp xúc, tìm hiểu, nghiên cứu các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới; cách mạng Mỹ năm 1776, cách mạng tư sản Pháp năm 1789 và các kiểu, các hình thức nhà nước mà những cuộc cách mạng này xây dựng sau khi cách mạng thành công, HCM đi đến kết luận: đó là những cuộc cách mạng chưa đến nơi, chưa triệt để.

Nghiên cứu cách mạng XHCN Tháng Mười Nga năm 1917, Người nhận định đây là cuộc cách mạng triệt để và đến nơi, đưa lại quyền lợi thật sự cho nhân dân lao động.HCM kết luận: cách mạng Việt Nam nên theo Cách mạng Tháng Mười Nga, đó là cuộc cách mạng xác lập hình thái nhà nước trong đó quyền lực thuộc về số đông người.Chính mô hình nhà nước đó đã gợi ý cho HCM về một kiểu nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai.

1.2 Cơ sở lý luận:

Văn hóa chính trị của Việt Nam trong lịch sử: Các bộ sử lớn của dân tộc như Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí; các Bộ luật nổi tiếng như Hình Thư (đời Lý), Quốc triều hình luật (đời Lê) cùng với tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” tiếp thu được ở Nho giáo…là cơ sở văn hóa chính trị đầu tiên của HCM trên con đường tìm kiếm một mô hình nhà nước tiến bộ cho đất nước sau khi giành được độc lập.

Các gí trị văn hóa chính trị của loài người: HCM kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và phát triển các tinh hoa văn hóa phương Đông trong tổ chức, quản lý xã hội, đặc biệt là triết lý “đức trị”, “nhân trị”, “chính sách định phận” của Nho gia (Khổng Tử); thuyết “kiêm ái” và các nguyên tắc thượng đồng, thượng hiền, phi công của trường phái Mặc gia; tư tưởng “pháp trị” của trường phái Pháp gia (Hàn Phi Tử: thưởng thật hậu và phạt thật nặng; sức mạnh của dân, của đất nước và xu thế lịch sử),… cũng như các quan niệm về chính trị, xã hội của các đại biểu phương Đông khác; tiếp thu, chọn lọc, phê phán tinh hoa văn hóa tư tưởng trong Vấn đề tổ chức, hoạt động của nhà nước của các đại biểu tiêu biểu ở phương Tây như: Đêmôcrít (cái nghèo trong chế độ dân chủ cũng quý hơn cái hạnh phúc của công dân dưới thời quân chủ y như là tự do quý hơn nô lệ; nhà nước là trụ cột của xã hội; cần phải xử lý nghiêm khắc những kẻ vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức); Platon (tiếp thu những giá trị hợp lý trong quan niệm của Platon về nhà nước lý tưởng); tiếp thu tư tưởng tiến bộ của các nhà khai sang Pháp như: J.J.Rouseau (Khế ước xã hội), C.L.Montesquieu (Tinh thần pháp luật),…nhất là quan niệm về bản chất dân chủ, nhân đạo của nhà nước, quan niệm về xây dựng nhà nước pháp quyền…và sau khi đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, HCM quán triệt và vận dụng sáng tạo học thuyết về nhà nước và nhà nước vô sản trong xây dựng nhà nước Việt Nam mới.

2.HCM với việc xác lập nhà nước kiể mới ở Việt Nam:

Lúc đầu HCM đưa ra mô hình nhà nước công nông binh theo mô hình Xôviết, ý tưởng này được thể hiện trong Chánh cương vắn tắt năm 1930: “dựng ra chính phủ công nông binh”.Từ thực tiễn cách mạng cho thấy hình thức chính quyền Xôviết chưa thật phù hợp với điều kiện xã hội Việt Nam.Về sau, Người chủ trương xây dựng mô hình nhà nước dân chủ cộng hòa như Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tám (5/1941) chủ trương: “không nên nói công nông liên hiệp và lập chính quyền Xôviết mà phải nói toàn thể nhân dân liên hợp và lập chính phủ dân chủ cộng hòa”.

Trong Thư gửi đồng bào toàn quốc, tháng 10/1944, HCM viết: “Chúng ta trước hết phải có một cái cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quân dân ta.Mà cơ cấu ấy thì phải do một cuộc Toàn quốc đại biểu Đại hội gồm tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra.Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”.Đó là một bước chuyển sáng suốt của HCM, phản ánh được nét đặc thù của thực tiễn dân tộc phù hợp với sự chuyển hướng chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, với bản Tuyên ngôn độc lập, HCM đã khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước dân chủ tiến bộ đầu tiên ở Đông Nam Châu Á, đặt nền móng cho việc xây dựng một nhà nước Việt Nam mới trong lịch sử dân tộc: Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, một nhà nước thể hiện quyền lực của nhân dân lao động.

Vấn đề 5: Mối quan hệ giữa các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong tư tưởng HCM về đạo đức.

“Nói tới một người cả cuộc đời mình để lại ân tình sâu nặng trong nhân dân thì không có ai ngoài chủ tịch HCM”, Người “là chân lý của lịch sử”, là “một nhà lý luận vĩ đại”, “là chiến sĩ đầu tiên của thế giới thứ ba, của các dân tộc nghèo đói thèm khát một cuộc sống cho ra người…Cụ dạy cuộc chiến đấu vì nhân phẩm và tự do phải được đặt lên trên mọi cuộc chiến đấu khác.Cụ đã bên vực những ai yếu hèn và mang lại nhân phẩm cho những người nghèo khổ”.Người “đã sống một cuộc đời với những tầm cỡ phi thường và đã có những cống hiến sâu sắc cho sự nghiệp giải phóng loài người.Chính lẽ đó đã làm cho tiểu sử của Người trở thành bài ca cho niềm vinh quang đối với triển vọng và khả năng của con người…” (Báo Thế giới, ngày 20/9/1969).

Chủ tịch HCM là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam.Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, sáng lập Đảng Mác – Lênin ở Việt Nam, sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước CHXHXNVN).Người luôn luôn gắn cách mạng Việt Nam với cuộc đấu trang chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.Người là tấm gương đạo đức cao cả, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, vô cùng khiêm tốn, giản dị.

Tư tưởng và những tấm gương đạo đức là một trong những “tài sản tinh thần vô giá” mà Người để lại cho Đảng và dân tộc ta.Trong đó phải kể đến chuẩn mực đạo đức cần, liêm, chính, chí công vô tư mà sinh thời Người đã giành sự quan tâm đặc biệt để giáo dục và định hướng chuẩn mực đạo đức cho thanh niên Việt Nam, những người chủ tương lai cho đất nước.

Trong “tài sản tinh thần vô giá” HCM để lại cho Đảng, dân tộc Việt Nam, có nhiều tác phẩm, bài viết, bài nói chuyện Người đề cập trực tiếp đến vần đề đạo đức, tiêu biểu như: Tác phẩm “Đường cách mệnh”, năm 1927; tác phẩm “Đời sống mới”, ngày 20/3/1947, ký tên Tân Sinh; tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, tháng 10/1947, ký tên X.Y.Z; tác phẩm “Cần kiệm liêm chính”, viết xong khoảng tháng 6/1949, ký tên Lê Quyết Thắng; tác phẩm “đạo đức công dân”, ngày 15/1/1955; tác phẩm “Đạo đức cách mệnh”, tháng 12/1958; tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, ngày 3/2/1969…Những tác phẩm trên đều có những giá trị lịch sử và những ý nghĩa hiện thực to lớn đối với Đảng ta, nhân dân ta.Trong đó, phải kể đến tác phẩm “Đời sống mới”, HCM viết ngày 20/3/1947, với bút danh Tân Sinh – Tác phẩm mà sinh thời Người mong muốn rằng “đồng bào ta mỗi người có một cuốn”, “để xem, để hiểu, để thực hành đời sống mới”.

Giá trị to lớn và tấm gương đạo đức HCM đối với Đảng và dân tộc đã được Đảng ta xác định từ rất sớm.Tại đại hội lần thư II của Đảng (năm 1951) đã ghi nhận đạo đức, phong HCM như một giá trị văn hóa, ngọn cờ tập hợp quần chúng và động lực tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.Đến đại hội VII(1991), Đảng xác định, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng HCM trở thành nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành động của Đảng và Cách mệnh Việt Nam.Đến đại hội VII, Đảng đưa ra một quan niệm về tư tưởng HCM, trong đó chỉ rõ tư tưởng “về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là một nội dung của tư tưởng HCM về những Vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam.Ngày 27/3/2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 23-CT/TƯ về “Đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền giáo dục tư tưởng HCM trong giai đoạn mới”, trong đó đặc biệt quan tâm tới Vấn đề đạo đức cách mạng.

Ngày 7/11/2006, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 06/ CT/TƯ về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM”.Ngày 2/2/2007, cuộc vận động này được phát động.

Những điều kể trên thể hiện ngày càng đầy đủ nhận thức của Đảng về giá trị lịch sử và hiện tại của tư tưởng và tấm gương đạo đức HCM đối với xây dựng đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên nói riêng, với nền tảng đạo đức mới của dân tộc Việt Nam nói chung.Do đó, việc đẩy mạnh giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên là một yêu cầu vừa mang tính cơ bản, lâu dài, vừa là đòi hỏi cấp bách, trước mắt của sự nghiệp đổi mới đất nước ta hiện nay như tinh thần của Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã nhấn mạnh: “Đặc biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mang.Cán bộ, đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng và nhân dân, thật sự tiên phong, gương mẫu, đi đầu trong mọi công việc; xử lý hài hòa các lợi ích, đặt lợi ích của Tổ uốc, của nhân dân lên trên hết.

Theo Người, đạo đức cách mạng không phải tự nhiên mà có, mà phải qua giáo dục, rèn luyện bền bỉ mới có được.Có thể nói, tư tưởng đạo đức cách mạng HCM là một bước phát triển mới, một cống hiến đặc sắc và sự phát triển của đạo đức học Mác – Lênin và nền đạo đức mới của xã hội ta.Tư tưởng đạo đức HCM hoan toàn đối lập với đạo đức cũ của giai cấp thống trị, áp bức, bóc lột nhân dân, đồng thời nó cũng hoàn toàn xa lạ với đạo đức tôn giáo, “thứ đạo đức khuyên con người ta sống khắc khổ, cam chịu, thụ động chấp nhận số phận để được đền bù hư ảo bằng một cuộc sống tốt đẹp hơn ở thiên đường hay ở chốn bồng lai, tiên cảnh”.

Theo Người:

“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.

Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

Thiếu một mùa, thì không thành trời.

Thiếu một phương, thì không thành đất.

Thiếu một đức, thì không thành người”.

Một ngày sau khi nước nhà giành được độc lập (ngày 3/9/1945), Chủ tịch HCM chủ tọa phiên tòa đầu tiên của Hội đồng Chính phủ.Người trình bày sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó có Vấn đề thứ tư cần phải giải quyết lúc bấy giờ là “Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện.Nó đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác.Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta.Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”.Để làm được những điều đó, Người đề nghị “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện : CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH.

Để giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân dân ta, Chủ tịch HCM đã có nhiều tác phẩm viết về Vấn đề này, Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, chương đầu tiên của cuốn sách là tư cách một người cách mệnh và tiêu chuẩn đầu tiên trong tư cách một người cách mệnh chính là: cần, kiệm.Sau này là tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (10/1947), “Thựa hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu” (1952).“Đạo đức cách mạng” (12/1958) và các bài báo như “Chớ kêu ngạo, phải khiêm tốn”, “Cần kiệm liêm chính”, “Cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh”, “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”…Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, Người nhắc “Đảng ta là một đảng cầm quyền.Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư…” và “Sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”.

Về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, Chủ tịch HCM nói một cách ngắn gọn, giản dị, cụ thể, dễ hiểu và dễ làm theo.

Theo HCM, “Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dèo dai,…Tục ngữ ta có câu: nước chảy mãi, đá cũng mòn, kiến tha lâu cũng đầy tổ…Dao siêng mài thì sắc bén.Ruộng siêng làm cỏ thì lúc tốt…Mọi người đều phải cần, cả nước đều phải cần”.NGười cũng lưu ý rằng: “Nếu làm cố chết cố sống trong một ngày, một tuần hay một tháng, đến nỗi sinh ốm đau, phải bỏ việc, như vậy không phải là cần”.

“Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi…”, “tiết kiệm không phải là bủn xỉn…Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, dại dột chứ không phải là KIỆM”, “Cần với Kiệm phải đi đôi với nhau như hai bàn chân của con người, Cần mà không Kiệm thì “làm chừng nào xào chừng ấy”, cũng như một cái thùng không đáy, nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn toàn… Kiệm mà không cần,…như cái thùng chỉ đựng một ít nước, không tiếp tục đổ thêm vào lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần cho đến khi khô kiệt”.

“Liêm là trong sạch, không tham lam…ngày xưa dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét dân thì gọi là liêm.Chữ Liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp…ngày nay, nước ta là dân chủ cộng hòa, chữ Liêm có nghĩa rộng hơn là mọi người đều phải Liêm… Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm cũng như chữ Kiệm phải đi đôi với chữ Cần.Có Kiệm mới Liêm được, vì xa xỉ mà sinh tham lam”.Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng.Không tâng bốc mình.Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ.Hành vi trái với chữ liêm là:…cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của riêng.Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị.Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham úy lạo.Cụ Khổng nói: người mà không liêm không bằng súc vật.Cụ Mạnh nói: ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy.

“Chính, nghĩa là không tả, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn…Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính.Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có nhành, lá, hoa, quả mới là cây hoàn toàn.Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là hoàn toàn.

Chính, đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.Đối với người, không nịnh nót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc.Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó, nguy hiểm, cố gằng làm việc tốt cho dân cho nước.

Cần, kiệm, liêm, chính trước hết là thước đo trình độ “người”, chất người của một con người, là thước đo đạo đức công dân.Điều đó giống như bốn mùa của trời, bốn phương của đất, “thiếu một mùa thì không thành trời, thiếu một phương thì không thành đất, thiếu một đức thì không thành người”.Cần, kiệm, liêm, chính còn được hiểu là thước đo sự giàu có về vật chất, văn minh, tiến bộ của một dân tộc.Bởi vì, “một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, một dân tộc văn minh, tiến bộ”.Vì vậy, cần, kiệm, liêm, chính là “nền tảng của đời sống mới, của Thu đua ái quốc”; là cái cần thiết để “làm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp, nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”.Với ý nghĩa sâu xa, rộng lớn như vậy, “cần, kiệm, liêm, chính là đặc điểm của xã hội hưng thịnh.Những điều trái lại là đặc điểm của xã hội suy vong” như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận xét.

Chí công vô tư, là làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi ích của cách mạng.Thực hành chí công vô tư là quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.“phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì mình”.Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm.HCM viết: “ Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.HCM cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân.Chí công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để vững vàng qua mọi thử thách: “Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”.

Ý nghĩa sâu xa của cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là ở chỗ, xét cho cùng, đạo đức là cái quý nhất, là linh hồn của một con người, một xã hội, một chế độ và một nền văn minh.Đạo đức cách mạng là tiền đề tiên quyết, là giá trị thuộc về nhân cách mỗi con người, là sức mạnh để người cách mạng thực hiện lý tưởng, mục tiêu của mình.

Để quyết tâm xây dựng đất nước, hướng tới một tương lai tươi sáng, phồn vinh trong thế kỷ mới, mỗi người cần phải thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ tịch: “Một hột gạo, một đồng tiền là mồ hôi, nước mắt của đồng bào.Vì vậy, ta phải ra sức tiết kiệm.Hoang phí là một tội ác.Có tiết kiệm, không hoang phí xa xỉ thì mới giữ được liêm khiết, trong sạch.Nếu hoang phí xa xỉ, thì ắt phải tìm cách xoay tiền, do đó mà sinh ra hủ bại, nhũng lạm, giả dối.Thậm chí làm chợ đen chợ đỏ, thụt két, buôn lậu.Có cần mới kiệm.Có cần, kiệm mới liêm.Có cần, kiệm, liêm mới chính”.

Lời người dạy cách đây hơn 60 năm về trước đã tạo nên động lực thúc đẩy kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công và vẫn còn nguyên giá trị đối với việc xây dựng nếp sống văn minh ở nơi công đường và cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn dân cư từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng lên miền núi trong phạm vi cả nước hiện nay và tương lai.Những lời dạy ấy vẫn còn nguyên tính thời sự, khi nước ta đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), khi nước ta đang trên bước đường hội nhập và phát triển, khi cả thế giới đang chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của cơn bão suy thoái kinh tế đang diễn ra, hơn lúc nào hết, chúng ta không chỉ dừng lại ở việc nhen lửa mà cần phải tiếp thêm lửa cho công cuộc xây dựng đời sống mới – văn hóa đời sống bằng những hành động thiết thực, cụ thể, góp phần làm tăng nội lực, giữ vững và tự hào Việt Nam trong nhận thức của bạn bè thế giới.Thực hành tốt những lời dạy của HCM về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là chúng ta đã góp phần làm giàu cho đất nước, làm tăng lòng tin của nhân dân vào Đảng và chính quyền.Như vậy là chúng ta cũng đã góp phần thực hiện tốt cuộc vận động: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM với chủ đề năm 2009 là “Nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.

Vấn đề 8: Quan điểm: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước” trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ gửi Quốc tế cộng sản, năm 1924 của HCM.

Năm 1969, 50 ngày trước lúc đi xa, khi trả lời nữ phóng viên báo Granma (CuBa) – đồng chí Mácta Rôhát, Người đã nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”.Có thể nói, động lực làm nên chí khí và sự nghiệp HCM chính là điều mà Người gọi là chủ nghĩa dân tộc.

Năm 1924, Người viết: “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”, chính chủ nghĩa dân tộc đã luôn thúc dục người dân Việt Nam từ nông dân nghèo đói đến địa chủ, từ công nhân đến tư sản dân tộc, từ học sinh nhân sĩ đến vua quan yêu nước,…đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp để giành độc lập cho dân tộc.Tiếp đó, Nguyễn Ái Quốc có những phân tích sâu sắc về sự biến đổi và phát triển của chủ nghĩa dân tộc dưới tác động của chiến tranh như sau:

* Chủ nghĩa dân tộc đã hiện đại hóa và người chỉ đạo chủ nghĩa dân tộc chính là giới thanh niên An Nam.

* Chủ nghĩa dân tộc ngày càng ăn sâu vào quần chúng.

* Trong chủ nghĩa dân tộc có cả lòng căm ghét bọn xâm lược Trung Quốc và người Ấn Độ sinh cơ lập nghiệp trên đất nước này.

* Chủ nghĩa dân tộc có xu hướng hợp pháp hóa các hình thức biểu hiện và yêu sách của nó; và lớp thanh niên ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn, có ý nghĩa hơn những lớp người già đi trước.

Trong khoảng hơn một trang in (Tiếng Việt), đã có ít nhất 16 lần Nguyễn Ái Quốc dùng tới thuật ngữ “chủ nghĩa dân tộc”.Nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng của chủ nghĩa dân tộc trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam khi đó, trong phần cương lĩnh và phương hướng hành động chung, Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ của Nguyễn Ái Quốc kiến nghị Quốc tế cộng sản “phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản…Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi…nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa Quốc tế.

Người còn cho rằng, Quốc tế cộng sản, những người cộng sản “sẽ không thể làm gì được cho người An Nam, nếu không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hỗi của họ”.

Ở Việt Nam khi đó, một phương hướng, nhiệm vụ như vậy là đúng đắn và phù hợp với lo6gic.Bởi khi đó, ở phương Đông, Đông Dương và cụ thể là, ở Việt Nam, “cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra như ở phương Tây”, người lao động, nhân dân bị áp bức tuyệt đại đa số là nông dân; trí thức có vai trò đặc biệt quan trọng, ý thức dân tộc của họ rõ ràng mạnh hơn ý thức giai cấp (vì ngay giai cấp công nhân Việt Nam trước năm 1924 cũng vẫn còn là giai cấp “tự phát”).Cho nên, trong khi tuyên truyền giác ngộ ý thức giai cấp của họ, thì đồng thời cũng phải “phát động chủ nghĩa dân tộc” của họ, bởi Vấn đề độc lập dân tộc là Vấn đề chủ yếu, nổi lên hàng đầu ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến như Việt Nam thời thuộc Pháp.Chủ nghĩa dân tộc được phát động như vậy sẽ là một trong những tiền đề, điều kiện vô cùng quan trọng cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang thắng lợi ở Đông Dương.Trong phần kết luận của mình, Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ đề cập tới “khả năng khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương”.Theo Nguyễn Ái Quốc, yếu tố đầu tiên quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa đó là nó phải được sự ủng hộ và tham gia của toàn thể nhân dân.Người việt: “Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương: 1- Phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn.Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chùng, nổ ra trong thành phố, theo kiểm các cuộc cách mạng ở Châu Âu, chứ không phải nổ ra đột ngột ở biên giới Trung Quốc, thep phương pháp của những nhà cách mạng trước đây…”.

Như vậy, Vấn đề “chủ nghĩa dân tộc” trong tư tưởng HCM là khá rõ ràng.Đối với Nguyễn Ái Quốc – HCM, chủ nghĩa dân tộc chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản thống nhất với nhau, “chủ nghĩa dân tộc theo HCM, hoàn toàn không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc phong kiến, tư sản hay Quốc tế II, (càng không phải là chủ nghĩa dân tộc cải lương), mà là chủ nghĩa dân tộc chân chính, theo lập trường chủ nghĩa Mác – Lênin, gắn dân tộc với quốc tế, dân tộc với giai cấp, hướng tới triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người”.

Như vậy, khi tiếp thu học thuyết Mác về đấu tranh giai cấp, Nguyễn Ái Quốc cũng thừa nhận đấu tranh giai cấp là một động lực trong xã hội có giai cấp, nhưng Người không cho đó là động lực duy nhất.Xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, mất nước với nhiệm vụ cứu nước giành độc lập dân tộc đang đặt lên hàng đầu, thì “chủ nghĩa dân tộc là một động lực của đất nước”.Bởi vì, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc.Hơn nữa, ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, sự phân hóa giai cấp đã bắt đầu nhưng chưa triệt để và sâu sắc, xung đột giai cấp chưa gay gắt và mạnh mẽ, cả dân tộc mang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giành độc lập, tự do, thì chủ nghĩa dân tộc là động lực vĩ đại, như Ph.Ăngghen đã từng nói: “Những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính”.

Tóm lại, về luận điểm này, HCM đã bổ sung vào học thuyết Mác.Người nói: Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử nhưng đó là lịch sử Châu Âu mà lịch sử Châu Âu chưa phải là toàn thể loài người.Vì vậy, mà dù sao cũng không cấm bổ sung cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa vào đó những tư liệu mà Mác ở thời đại mình chưa có được và theo HCM, tư liệu cần bồ sung đó chính là chủ nghĩa dân tộc phương Đông.Như lập luận của Charles Fourniau – nhà sử học người Pháp khi nghiên cứu về chủ nghĩa dân tộc trong tư tưởng HCM: “Vấn đề duy nhất đặt ra là cần hiểu rõ tại sao và thế nào mà một người dân thuộc địa tất nhiên phải đi theo chủ nghĩa dân tộc? và tại sao lại tìm được chủ nghĩa cộng sản như là con đường duy nhất để thực hiện độc lập cho Tổ quốc mình?”.Ông đã tự trả lời rằng: “Việc áp dụng một cách độc đáo chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, chắc chắn đó là một trong những nguyên nhân thắng lợi của Việt Nam, thể hiện một cách chính xác sự thống nhất đã đạt được của truyền thống dân tộc và của cuộc cách mạng sâu xa mà việc áp dụng chủ nghĩa Mác đòi hỏi, cũng là sự thống nhất một cuộc cách mạng dân tộc với phong trào cộng sản quốc tế, đó là những dấu ấn riêng của Chủ tịch HCM trên phong trào cách mạng Việt Nam”.Những ý kiến của nhà sử học nước ngoài này đã góp phần làm sáng tỏ quan điểm của HCM về chủ nghĩa dân tộc.

Vấn đề 9: Tư tưởng HCM về con người và chiến lược trồng người

1.Quan niệm của HCM về con gnười:

a.Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể:

HCM xem xét con người như 1 chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt động của nó.Con người luôn có xu hướn vươn lên cái Chân thiện mỹ,mặc dù “ có thế này, thế khác”.

HCM có cách nhìn nhận, xem xét con người trong tính đa dạng của nó: đa dạng trong quan hệ xã hội( quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lướp, đồng chí, đồng bào..)  đa dạng trong tính cách, phẩm chất, khả năng, cùng như năm ngón tay, có ngón ngắn ngón dài…

HCM xem xét con ngưới trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và ác; hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ…

b.Con người cụ thể, lịch sử:

HCM cũng dùng khái niệm “ con người” theo nghĩa rộng trong một số tường hợp( phẩm giá con người, giải phóng con người, người ta..) nhưng đặt tỏng bối cảnh lịch sử và một tư duy chung, còn phần lớn, Người xem xét con người trong mối quan hệ XH, quan hê giai cấp, theo giới tính( thanh niên, phụ nữ), theo lứa tuổi( phụ lão, nhi đồng), nghề nghiệp( công nhân, nông dân, trí thức..) trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc( sỹ, nông, công, thương, binh) và quan hệ quốc tế( bầu bạn năm châu, các dân tộc bị áp bức, bốn phương vô sản).Đó là con người hiện thực, cụ thể, khách quan.

c.Bản người mang tính xã hội:

Để sinh tồn, con người phải lao dộng sản xuất.Trong quá trình ao động sản xuất, con người dần nhân thức được các quy luật của tự nhiên, của XH hiểu biết về mình và hiểu biết lẫn nhau..xác lập mối quan hệ giữa người với người.

Con người là sản phẩm của XH.Trong quan niệm của HCM con người là tổng hop các quan hệ XH từ rộng tới hẹp, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh, em, họ hàng, bầu bạn; đồng bào; mọi người..

2.Quan niệm của HCM về vai trò của con người và chiến lược “trồng người”

a.Quan niệm của HCM về vai trò của con người.

Một là con ngừơi là vốn quý nhất, nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp cách mạng

Theo HCM lịch sử là do quần chúng nhân dân tạo ra, chứ không phải vài ba cá nhân anh hùng nào đó , vì vậy chúng ta phải yêu dân, quý dân, trọng dân, vì “ có dân là có tất cả”.Trong bài nói chuyện tại lớp huấn luyện nghiên cức chính trị khóa II trường Đại học An ninh Nhân  dân, ngyà 18/12/1956, HCM nói “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân.Thế giới không gì quý bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”; “ Trong XH không gì có gì tót đẹp, vẻ vang bằng phuc vụ cho lợi ích của nhân dân” cũng như trong bài 6 điều nên và 6 điều không nên làm, ngày 5/4/1948, HCM viết.” Gốc có vừng cây mới bền, xây lấu thắng lựoi trên nền nhân dân”.

Từ đó ta thấy nổi lên ở HCM một tấm lòng yeu thương vô hạn đối với con người, một niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá của con người, một ý chí kiên cuòng đáu tranh để giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, đói nghèo lạc hậu.Cũng có thể coi đó là những nội dung cơ bản của chủ nghĩa nhân văn HCM.Người từng nói: “ Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề..là vấn đè ở đời và làm người ở đời và làm người pahỉ là yêu nước thương dân, thương nhân loại bị đau khổ, áp bức

Hai là, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng

Để phát huy vai trò của con người, HCM đã đề cập đến một hệ thống nội dung và biện pháp( vật chất và tinh thần) nhằm tác động vào cái động cơ thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người, đồng thời cũng chỉ ra những nội dung và biện pháp làm triệt tiêu các trở lực nhằm thúc đẩy sự phát triển theo hướng tiến bộ.

Trong hệ thống các đọng lực chính trị, tinh thần, HCM chú trọng trươc hết đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước, đạo đức cách mạng..đồng thời khồn coi nhẹ vai trò tác động của các yếu tố tinh thần như văn hóa, khoa học, pháp luật.Đặc biệt Người chú trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân.“ coi thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn” như trong bài “ cái chìa khóa vạn năng” ngày 25/3/1967 Người đã viết.

b.Tư tưởng HCM về chiến lược  “trồng người”

Trồng người là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của CM

Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của CM, HCM rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người.Người nói đến “lợi ích trăm năm”vừa là mục tiêu xây dựng CNXH là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bả  lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách.Nó liên quan đén nhiệm vụ” trước hết cần có những con người XHCN” và “ trồng người”.Tất cả những điều này phản ánh tư tưởng lớn về tầm quan trọng có tính quyết đoán của nhân tố con người.

Như vậy, con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển.Nó vừa nằm trong chiến lược kinh tế- xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục và đào tạo theo nghĩa hẹp.

“Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người XHCN”

+ Con người XHCN đương nhiên phải do XHCN tạo ra.Nhưng ở đây trên con đường tiến lên XHCN thì “ trước hết cần có những con người XHCN”.Điều này được hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người XHCN, làm gương lôi cuốn XH.Công việc này là một qua trình lâu dài, không ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng và NN, gia đình cá nhân mỗi người.

+ Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang xây dựng XHCN .Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “ Xây dựng CNXH” và “ con người XHCN”.

+ Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có 2 mặt gắn bó chặt chẽ với nhau.

  • Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống( Việt Nam và phương Đông).
  • Hai là, hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng XHCN, có đạo đức XHCN, có tác phong XHCN; có lòng nhân ái, vị tha…

Chiến lược “ trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội

Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục và đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất.Bới vì, giáo dục tốt tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên.Ngược lại giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu tới thanh niên.

Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện về cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức và lý tưởng cách mạng, lối sống XHCN lên hàng đầu.Hai mặt đức tài thống nhất vói nhau, không tách rời nhau, trong đó đức là nền gốc, là nền tảng cho sự phát triển.Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm, có như vậy mới có thể “học để làm người”.

“Trồng người” là công việc” trăm năm”, không thể nóng vội “ một sớm một chiều”, không phải làm một lúc là xong, cũng không phải  tùy tiện, đến đâu hay đến đó.Nhận thức và giải quyết Vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời môic con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.HCM cho rằng “việc học không bao giờ cùng,còn sống còn phải học”.

Vấn đề 10: Quan điểm “Lý luận cốt để áp dụng vào hoạt động thực tiễn, lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông” của HCM.

Một trong những di sản mà HCM để lại cho chúng ta là tư tưởng về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một biện pháp cơ bản nhằm ngăn ngứa.Khác phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.

HCM dùng nhiều cách diễn đạt khác nhau: “Lý luận đi đôi với thực tiễn”, “ Lý luận kết hợp với thực hành”… Dù nói “ đi đôi”, “ gắn liền”, “kết hợp”… nhưng điều cốt lõi nhất mà HCM muốn nhấn mạnh đó là: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của CN Mác – Lênin.Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thực hành là mù quáng.Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.

Quan điểm: “ Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế, lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông” đề cập đến vai trò của lý luận đối với thực tiễn trong mối quan hệ biện chứng của nó.Đế làm rõ quan điểm này, cần tìm hiểu quan niệm của Người về “lý luận” và “thực tiễn”.

Quan điểm về “lý luận” và “thực tiễn” được thể hiện qua các tác phẩm của HCM là:

+ Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” ( 10/1947), HCM  viết “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh kỹ lưỡng, rõ ràng, rồi thành kết luận.Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế.Đó là lý luận chân chính”.

+ Trong Diễn văn khai mạc lóp học lý luận khóa I của trường Nguyễn Ái Quốc(7/9/1957), HCM đã nêu rõ: “ Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và XH tích trữ lại trong quá trình lịch sử”.

+ Còn “thực tế là các Vấn đề mình phải giải quyết, là mâu thuẫn của sụ vật.Chúng ta là những người cán bộ cách mạng, thực tế của chúng ta là những Vấn đề cách mạng đề ra cho ta giải quyết.Thực té bao gồm rất rộng.Nó bao gồm kinh nghiệm công tác và tư tưởng của cá nhân, chính sách và đường lối của Đảng, kinh nghiệm lịch sử của Đảng cho đến các Vấn đề trong nước và TG”.

+ Với quan niệm về lý luận và thực tiễn như vậy, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc(10/1947), ký tên X.Y.Z, xuất bản năm 1948, quán triệt quan điểm của CN Mác- Lênin, HCM khẳng định lý luận có vai trò to lớn đối với thực tiễn, “lý luận như chim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong kinh nghiệm thục tế”; “ không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”; “ Làm mà khồng có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp, vừa hay vấp váp”

Tuy nhiên HCM cũng luôn nhắc nhở rằng, có lý luận rồi thì phải kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại mắc bẹnh lý luận suông, tức bệnh giáo điều.

Do đó khi vận dụng lý luận vào thực tiễn phải xuất phát từ thực tiễn, nếu không cũng mắc bệnh giáo điều.Như vậy lý luận chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn, đóng vai trò soi đường, dẫn đường, chỉ đạo thực tiễn, Đồng thời khi vận dụng lý luận vào thực tiễn thì phải phù hợp với điều kiện thực tiễn.Rõ ràng thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở TT HCM phải được hiểu là, thực tiễn- lý luận; lý luận- thực tiễn luôn hòa quyện thống nhất với nhau, đòi hỏi nhau, cần đến nhau, tạo tiền đề cho nhau phát triển.Người viết “ Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận chỉ đạo thực hành” (19/7/1951).

Đồng thời người cũng chỉ rõ “ lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ không có kết quả.Do đó trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: Lý luận phải liên hệ với thực tế”.Đặc biệt Người rất quan tâm đến việc vận dụng và học tập lý luận của CN Mác- Lênin là “Phải học tinh thần của CN Mác- Lênin, lập tập lập trường quan điểm của CN Mác- Lênin để áp dụng lập trường, phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những Vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của ta”.

Tư tưởng HCM về thống nhất giữa luận và thực tiễn như một biện pháp cơ bản để ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều và có ý nghĩa hết sức to lớn hiện nay, khi mà chúng ta đang tìm lời giải đáp cho Vấn đề thực tiễn đổi mới đặt ra.Bởi lẽ để tìm lời cho những Vấn đề đó chúng ta phải tìm cả trong CN Mác- Lênin, TT HCM cũng như trong chính thực tiễn đổi mới hiện nay ở nước ta.Nghĩa là phải bằng phương pháp, quan điểm của CN mác- Lênin và TT HCM tổng kết những Vấn đề thực tiễn hôm nay 1 cách có lý luận.

Vấn đề  11: Quan điểm: “Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân,đồng thời là Đảng của dân tộc, không thiên tư, thiên vị” của HCMTừ quy luật hình thành và phát triển của Đảng, HCM đã đi đến luận điểm Đảng cộng sản VN là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của cả dân tộc VN.Đảng là đội tiền phong của đạo quân vô sản, Đảng tập hợp vào hàng ngũ của mình những người “Tin theo Đảng cộng sản ư, chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản…dám hy sinh, phục tùng Đảng và đóng kinh phí, chiu phấn đấu trong một bộ phận của Đảng”.

HCM là người có công lớn đầu tiên đối với dân tộc ta, với Đảng ta là về mặt lý luận đã sớm khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân VN và sớm sáng lập và xây dựng một Đảng tiên phong của giai cấp công nhân.

Cần nhấn mạnh rằng, phát hiện sứ mệnh lích sử của  giai cấp công nhân thế giới là công lao của Mác- Ăngghen.Nhưng qua những cuộc tranh luận lý luận về Vấn đề đó trong PTCM và PTCN từ sau khi Các Mác và Ăngghen qua đời và xem xét vaán ddề đó vào những điều kiện cụ thể những năm hai mươi của thế kỷ 20 mới thấy đâỳ đủ giá trị của lý luận và thực tiễn mà HCM đã cống hiến cho cách mạng VN.Sau này khi đánh giá về giai cấp công nhân VN, HCM khẳng định “ Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, uôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân”.Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiêm của phong trào công nhân quốc tế, giai cấp công nhân tỏ ra mình là người xứng đấng nhất và tin cậy nhất của nhân dân VN.Như khẳng định của Người năm 1923, tại Hội nghị Quốc tế nông dân: “ Trong thời đại hiện nay, giai cấp công nhân là giai cấp độc  nhất và duy nhất có sừ mệnh lích sử là lành đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng, bằng cách liên minh với giai cấp nông dân”.

Trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng và từ khi Đảng ra đòi cho đến khi người đi xa, HCM luôn luôn làm cho toàn Đảng quán triệt: Đảng CSVN là Đảng của giai cấp công nhân.Đảng phái giữ vững và tăng cường bản chất của giai cấp công nhân của Đảng.Lịch sử dân tộc ta, trước HCM đã có nhiều nhà yêu nước nhiêt huyết nhưng đều không cứu được nước, không giành được độc lập dân tộc.Khác vói các nhà yêu nước đương thời.HCM đã sớm ý thức được sứ mệnh của giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản.Người đã sáng lập ra Đảng cộng sản, giáo dục, rèn luyện Đảng thành một Macxít, Lêninnit chân chính, lãnh đạo nhân dân ta vượt qua nhiều thử thách, đưa cách mạng VN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Tư tưởng HCM về Đảng trong các tác phẩm:

Tác phẩm “ Đường cách mệnh” năm 1927, Người đã chỉ rõ “ Đảng muốn vững thì phải lấy chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy.Đảng mà không có chủ nghĩa cũng giống như người mà không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”.Trước khi thành lập Đảng, Người đã đề ra chủ trương “ Vô sản hóa”, đưa cán bộ Đảng viên không xuất than từ công nhân vào làm việc ở các nhà máy, hầm mỏ để tuyên truyền chủ nghĩa Mác –Lênin vào phong trào công nhân, đồng thời tụ rèn luyện mình trở thành người vô sản và thành người cộng sản.“ Vô sản hóa” là một yếu tố đầu tiên quan trọng tạo điều kiện cho đảng viên thực sự giác ngộ, trung thành với chủ nghĩa MácLênin, giữ vững được bản chất giai cấp công nhân của Đảng”.

Trong “ Chánh cương ván tắt” được thông tại Hội nghị thành lập của Đảng cộng sản VN ngày 3/2/1930, Người đã khẳng định “ Đảng là đội viên tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được điạ bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng, Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cầy và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúng bọn đại địa chủ phong kiến ”.

Xuất phát từ đặc điểm của giai cấp công nhân VN: Giai cấp công nhân, nông dân và nhân dân lao động có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp công nhân VN phần lớn xuất thân từ giai cấp công nhân, cả 2 đều có mục tiêu là giải phóng dân tộc.

Đến năm 1951, trong báo cáo chính trị tại Đại hội đại biẻu lần thứ II của Đảng( khi Đảng ra công khai và đổi tên thành Đảng Lao đông Việt Nam), Người khẳng định : “Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc là một.Chính vì Đảng Lao động là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho nên nó phải là Đảng của ả dân tộc VN”.Năm 1961, HCM tiếp tục khẳng định: “ Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc, không thiên tư, thiên vị.”

Đảng mang bản chất giai cấp công nhân không chỉ thể hiện ở sổ lượng đảng viên xuất than từ giai cápcông nhân mà còn ở nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác Lênin, ở mục tiêu và đường lối của Đăng là độc lập dân tộc gắn iền với chủ nghĩa XH vì giải phóng đan tộc giả phóng giai cấp, giải phóng con người, ở vấn đè Đảng tuân thủ nguyên tắc của Đảng kiểu mới của Lênin.Đảng kết hợp những người ưu tú của giai cấp công nhân, nông dân, trí thức và ccá thành phần khác mà họ đã được rèn luyện, thử thách, giác ngộ về Đảng và tự nguyện phấn đấu trong hàng ngũ của Đảng.Đảng đạc biệt chú ý, giáo dục đảng viên, giác ngộ giai cấp và dân tộc, nâng cao hiểu biết chủ nghĩa Mác-  Lênin.Dảng ta là sụe thống nhaát giữa tính giai cấp và tính dân tộc, lợi ích của giai cấp gắn liền với lợi ích của dân tộc, “ nhân dân và cả dân tôc thừa nhận Đảng là người lãnh đạo duy nhất, đại biểu cho quyền lợi cơ bản và thiết than của mình”.

Bản chất của Đảng còn thể hiện ở định hướng xây dựng Đảng thành Đảng gắn bó máu thịt với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ của cách mạng VN.Vì theo Người “ Đảng ta vĩ địa vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”, “là thống nhất, độc lập, hòa bình, ấm no”.

Tóm lại, trên  cơ sở giải quyết sáng tạo, khôn khéo yếu tố dân tộc và giai cấp, vững vàn về nguyên tắc và phương châm xây dựng Đảng, HCM  xác định: Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc VN; Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đôi tiên phong của cách mạng dân tộc.Qua thục tiễn cách mạng HCM cho rằng: Đảng ta xứng đấng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân ao động và của cá dân tộc.Quan điểm này là 1 quan điểm lớn của HCM, bổ sung vào kho tàng lý luận của CN Mác- Lênin.Về Vấn đề này, năm 1948,CMác và Ăngghen đã khẳng định trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản rằng, Đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vô sản, trong cuộc đấu tranh giành lấy chính quyền thì giai cấp vô sản phải “ phải tự mình vươn lên thành giai cấp, phải tự mình trở thành dân tộc”.Với HCM, quan điểm này đã được cụ thể hóa trong thực tiễn sinh động của phong trào công nhân và cách mạng VN.Vì vậy trong xây dựng Đảng, không phải chỉ có giai cấp công nhân mà cả nhân dân lao động và cả dân tộc đều tham gia.Cả dân tộc thừa nhận Đảng là của mình, cả nhân dân tộc tin tưởng ở Đảng, quyết tâm thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, tích cực bảo vệ và tham gia xây dụng Đảng.Điều này thục sự là niềm tự hào của Đảng ta, không phải Đảng nào cũng có được.

Vấn đề 13:  Nhận định: Yêu người là điểm cốt lõi trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

Với quan niệm con người không phải là thần thánh, có cả cái tốt và cái xấu.Bởi vậy, phải “làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi”, HCM yêu cầu phải thức tỉnh, tái tạo lương tâm, đánh thức những gì tốt đẹp trong con người.

Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa truyền thống đạo đức của dân tộc VN; tinh hoa triết học và văn hóa phương Đông và phương Tây; những tư tưởng đạo đức của Mác, Ăngghen và Lênin và các tấm gương đạo đớc mà các ông để lại; cùng với thực tiễn đấu tranh kiên cường bất khuất của dân tộc VN, truyền thống LS cách mạng VN và từ bản thân cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, HCM đã hình thành tư tưởng của mình về vị trí, vai trò, sức mạnh của đạo đức trong mối quan hệ với tài, từ đó vạch ra những chuẩn mực đạo đức: trung với nước, hiếu với dân, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, yêu thương con người, tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung cùng với những nguyên tắc để xây dựng những chuẩn mực đạo đức ấy: nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức; xây đi đôi với chống, tu dưỡng và rèn luyện đạo đức suốt đời như ngọc càng mài càng trong, vàng càng luyện càng sáng.

HCM đã nhìn ra đạo đức co thể gấp 10 lần sức mạnh của con người, đã thấy được ở phương Đông 1 tấm gương có giá trị gấp trăm bài diễn thuyết.Do đó, Người chú trọng Vấn đề đạo đức, đặc biệt xây dựng nẫu người toàn diện cả đức lẫn tài, cả tâm hồn lẫn trí tuệ và sức khỏe, phải trung với nước, hiếu với dân, phải yêu thương con người, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, phải có tinh thần quốc tế trong sáng.Đối với người nói là phải đi đôi với làm, phải làm gương “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” xây đi đôi với chống và phải tu dưỡng đạo đức suốt đời giống như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.

Có thể nói bản chất đạo đức HCM là CN nhân văn HCM, trong đó yêu người là điểm cốt lõi, chủ nghĩa nhân đạo vừa là điểm xuất phát, vừa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ học thuyết đạo đức của HCM và được thể hiện qua mấy điểm sau:

Một là, chủ nghĩa nhân đạo HCM là lòng yêu nước thương con người, trước hết là những người cùng khổ trong XH.Ngay cả những người lầm đường lạc lối, HCM cũng tỏ ra sự khoan dung, độ lượng: “Năm ngón tay cũng có ngón ngắn, ngón dài.Nhưng ngắn dài đều họp lại nơi bàn tay.Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta.Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ”.Khi bôn ba nơi hải ngoại, chứng kiến cảnh áp bức bóc lột của nhân dân các nước thuộc địa khác, tình yêu thương con người ở Người mở rộng sang yêu thương những người cùng cảnh ngộ, những người LĐ nghèo đói, những người thuộc các dân tộc khác có chung số phận với dân tộc VN.Trong bài Đoàn kết giai cấp, năm 1924, HCM viết: “Dù là màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có 2 giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột.Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”.

Xuất phát từ tình yêu thương ấy mà Người đã đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công.Mục tiêu của HCM đã từng nói rõ trong  Lời ra mắt của báo Người cùng khổ(Le Paria) năm 1921: “đi từ giải phóng những người nô lệ mất nước, những người lao động khổ đến giải phóng con người”.

Hai là, trong CN nhân đạo HCM ý thức giải phóng cho dân tộc mình, đất nước mình là Vấn đề lớn nhất, bao trùm nhất.Với HCM, yêu nước gắn với yêu dân, yêu nước thương dân trước hết và chủ yếu là tình yêu thương đồng bào.Người nói/; “Tôi chỉ có 1 sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.

Ngay sau CMT8 thành công, Người đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc đói và diệt giặc dốt cùng với việc chống giặc ngoại xâm.Trước mắt, phải xóa đói nghèo, làm cho KT phát triển.KT có phát triển đời sống đồng bào có ấm no thì đất nước mới cường thịnh.Rồi người chăm lo đến việc nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ, phát triển giáo dục để dân tộc VN trở thành 1 dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu LĐ, 1 dân tộc xứng đáng với nước VN độc lập.Tình yêu thương con người ở HCM không chỉ giới hạn ở nhân dân VN mà là tình bác ái bao la.

Ba là, yêu thương con người, tin tưởng vững chắc vào khả năng và phẩm giá tốt đẹp của con người, kính trọng nhân dân, cùng nhân dân thực hiện các mục tiêu cách mạng.Người từng nói “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân.Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, “người là gốc của làng nước”, “nước lấy dân làm gốc”, “gốc có vững cây mới bền”, “xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.CMT8/1945 thành công, tại cuộc họp đầu tiên của UB nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, HCM nêu rõ mục tiêu của nhà nước là:

 “1.Làm cho dân có ăn.

 2.Làm cho dân có mặc.

3.Làm cho dân có chỗ ở.

4.Làm cho dân có học hành”.

Người còn nói “Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập.Chúng ta đã tranh được rồi… Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì.Dân chĩi3 biết rõ giá trị của tự do, củ độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”.

Vấn đề 15: Những động lực và trở lực của công cuộc xây dựng CNXH trong tư tưởng HCM về CNXH.

Theo HCM những động lực thúc đẩy công cuộc xây dựng CNXH bao gồm:

+ Theo người động lực quan trọng và quyết định của xây dựng CNXH chính là nhân tố con người.Trong bài Xây dựng những con người của CNXH tháng 3/1961, HCM viết: “Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người XHCN”.

+ Mặt khác theo Người, truyền thống yêu nước của dân tộc, sự cố kết cộng đồng, sức LĐ sáng tạo của nhân dân là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng của công cuộc xây dựng CNXH.Người luôn xây đắp khối đoàn kết dân tộc và nhấn mạnh: đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh vô địch.

+ Theo Người, văn hóa cũng là động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp xây dựng CNXH.Nhận thấy rõ vai trò ngày càng tăng của văn hóa trong sự phát triển.Người cho rằng văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi; phải xúc tiến công tác đào tạo con người mới và cán bộ mới.Đó là nguồn vốn, là của cải quý báu nhất của quốc gia.Như trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951, HCM viết: “ văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong KT và CT”.

+ HCM coi trọng động lực KT trong sự nghiệp xây dựng CNXH, nhất là lĩnh vực SX, kinh doanh có tác dụng giải phóng mọi năng lực SX vì ích nước, lợi nhà.Trong bài nói tại Hội nghị đại biểu những người tích cực trong phong trào văn hóa quần chúng(11/02/1960), HCM nói: “ Muốn tiến lên CNXH thì phải phát triển KT và văn hóa.Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế ? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế KT phải đi trước.Nhưng phát triển để làm gì? Phát triển KT và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”’; “Văn hóa phải gắn liền với LĐ SX.Văn hóa xa đời sống và xa LĐ  là văn hóa suông”.Nhấn mạnh vai trò của phát triển KT với thắng lợi của chế độ XHCN qua cuộc nói chuyện với nhân dân Thủ đô về thành công của Đại hội lần thứ 21 ĐCS Liên Xô tối 19/02/1959, Người khẳng định : “Tờ báo tư sản Mỹ Cộng hòa mới viết: Liên Xô chọn KT làm chiến trường, trên chiến trường ấy chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng lợi”.

+ Theo HCM cần phải kết hợp được các nhân tố nội sinh với các nhân tố ngoại sinh.Một trong những sự kết hợp đó, chính là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.Trong bài Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay, tháng 1/1959, HCM viết: “Cách mạng VN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, điều đó chứng minh rằng trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở 1 nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong mặt trận thống nhất, với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là phe XHCM hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi”.Tuy nhiên người cũng căn dặn: “Sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác.Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”(trong Bài nói tại Hội nghị chiến tranh du kích, tháng 7/1952).

HCM đã chỉ rõ những trở lực như yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của CNXH mà muốn xây dựng và đi lên CNXH phải triệt tiêu cho bằng được đó là:

+ HCM, lưu tâm đến 3 thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.Đó cũng chính là nêu rất khái quát về 3 “trở lực” cho cách mạng nước ta.

+ Khi bước vào xây dựng CNXH ở miền Bắc, Người lại lưu ý: “Để tiến lên CNXH, cuộc đấu tranh phải lâu dài và gian khổ.Cần có người cách mạng là vì còn có kẻ địch chống lại cách mạng.Theo đó, “kẻ địch” gồm có 3 loại:

  • CNTB và bọn đế quốc là kẻ địch rất nguy hiểm.
  • Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ.Chúng ta lại không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó 1 cách rất cẩn thận, rất khó chịu, rất lâu dài.
  • Chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta.Nó chờ dịp hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi, để ngóc đầu dậy.Nó là bạn đồng minh của 2 kẻ địch kia ”.

Trong đó người đặc biệt nhấn mạnh: chướng ngại vật lớn trên con đường xây dựng CNXH chính là tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, thắng lợi của CNXH không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.Trong bài Đạo đức cách mạng, tháng 12/1958, HCM viết: “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí”.Trong Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ 3 của Đoàn thanh niên Lao động VN, ngày 24/03/1961, HCM viết: “Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích riêng của tập thể… Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu…Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng, CNXH”.Trong bài Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân, ngày 03/02/1969, HCM viết: “ Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật” và “ …thắng lợi của CNXH không tể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”.

+ HCM coi tham ô, lãng phí là 1 trở lực cho sự nghiệp xây dựng CNXH(gắn liền với tệ quan liêu, mệnh lệnh…).Bởi vì, trong điều kiện và hoàn cảnh mới thì Đảng lãnh đạo chính quyền, cán bộ, đảng viên có cương vị, công việc hằng ngày gắn đến nhiều những nhu cầu, lợi ích, nhất là lợi ích KT(tiền bạc, của cải,…) của nhà nước, của nhân dân ở các ngành, các cấp.Đó là “những viên đạn bọc đường” rất dễ bắn gục con người, thậm chí cả những người rất kiên cường trong lao tù, trong chiến trận chống bọn xâm lược và tay sai trước đây.Người nhấn mạnh: “Tham ô, lãng phí tài sản của nhà nước, của tập thể, của nhân dân là hành động trộm cắp, mà ai cũng phải thù ghét, phải trừ bỏ”.Và ai cũng biết, HCM thường coi đó “là hành động xấu xa nhất của con người… Nó có hại đến sự nghiệp xây dựng nhà nước”, là “giặc nội xâm”.

+ HCM coi bệnh chủ quan, bảo thủ, chủ nghĩa kinh nghiệm, giáo điều, lười biếng không chịu học tập cái mới… là trở lực của quá trình xây dựng CNXH.Trong Diễn văn khai mạc Đại hội lần thứ 3 của Đảng ta(1960), Người chỉ rõ: “ Chúng ta còn nhiều khuyết điểm như: bệnh chủ quan, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm, tác phong quan liêu, chủ nghĩa cá nhân… Những khuyết điểm ấy ngăn trở sự tiến bộ của… chúng ta”.Người đã nhiều lần chú ý việc học tập CN Mác – Lênin, kinh nghiệm các nước khác, kinh nghiệm của đơn vị khác, người khác… đều phải chủ động, sáng tạo, chứ không “rập khuôn máy móc”.Trong bài Đạo đức cách mạng, tháng 12/1958, HCM viết: “Học tập CN Mác – Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của CN Mác – Lênin để áp dụng 1 cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta.Học để mà làm, lý luận đi đôi với thực tiễn”; cũng như trong Diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa I trường Nguyễn Ái Quốc, ngày 7/9/1957, HCM viết: “Phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin: học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của CN Mác – Lênin để áp dụng… giải quyết cho tốt những Vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta.Như thế chúng ta học tập lý luận là cốt để áp dụng vào thực tế” và “không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều”.

Câu hỏi thêm từ Vấn đề 15: Trong giai đoạn hiện nay chúng ta sẽ vận dụng những động lực và trở lực đó như thế nào cho công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta ?

Trong giai đoạn hiện nay, cách mạng nước ta đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, thời kỳ rất cần những con người đủ đức, đủ tài gánh vác, chèo lái để xây dựng CNXH.Hơn bao giờ hết, chúng ta phải nghiêm túc học tập, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng HCM về những “động lực” cũng như cần phải khẳng định những lời dạy của Người khi cảnh báo những trở lực đối với sự nghiệp xây dựng CNXH vẫn còn nguyên giá trị.Sự xuống cấp về đạo đức XH, sự tha hóa, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, đang là nỗi lo       , là giặc nội xâm, là những thách thức cản trở sự nghiệp cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay.Chỉ thị 06 của Bộ CT phát động thực hiện cuộc vận động: “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM” cũng chính là thực hiện mục tiêu ngăn chặn, đẩy lùi những trở lực ấy, nhằm xây dựng nền tảng đạo đức, con người XHCN trong giai đoạn cách mạng mới.

Vấn đề 19: Quan điểm: “Muốn xây dựng CNXH phải có con người mới XHCN” của HCM.

Sự nghiệp đấu tranh CM nhằm biến XH cũ, xấu xa, bất công và phi nhân tính thành một XH mới, tốt đẹp và công bằng cho tất cả mọi người là 1 quá trình đầy cam go, thử thách.Chủ tịch HCM từng khẳng định, có độc lập, tự do mà nhân dân vẫn chết đói, chết rét thì độc lập, tự do cũng chẳng có ý nghĩa gì; nhân dân chỉ hiểu rõ giá trị của độc lập, tự do khi họ dân được ăn no, mặc ấm… Chỉ có CNXH mới đem lại cho nhân dân tất thảy những quyền con người hết sức tự nhiên và chân chính ấy.Trong đó biện pháp “xây dựng con người mới XHCN” là 1 trong những yếu tố quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng CNXH ở VN.

Tư tưởng về xây dựng con người mới XHCN thể hiện sự vĩ đại, sâu sắc trong tầm nhìn của Chủ tịch HCM.Với tư tưởng này, Người không chỉ thấy hiện tại mà còn thấy cả tương lai; không chỉ dành tâm huyết trước mắt cho sự nghiệp CM mà còn chăm lo vun trồng cái gốc của sự nghiệp đó để nó trở nên vững bền.Ở đây quan điểm biện chứng duy vật về sự phát triển mà Người tiếp thu từ CN Mác – Lênin được vận dụng 1 cách sáng tạo: tương lai đang ở ngay trong hiện tại.

HCM đánh giá rất cao vai trò của thế hệ trẻ qua cách nói: “ Đầy nhiệt huyết, có sức sống tràn trề và năng lực sáng tạo…, đó là thế mạnh, là vốn quý của tuổi trẻ”.Với tư cách là đội ngũ dự bị, lực lượng kế cận hùng hậu của CM và là những người chủ tương lai của nước nhà, các thế hệ trẻ – trước hết là thanh niên, có trách nhiệm kế tục sự nghiệp CM, thực hiện sứ mệnh LS vẻ vang mà lớp người đi trước đã chuyển giao vào tay mình.Coi vận mệnh của nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh 1 phần lớn là do thanh niên, HCM khẳng định, thanh niên phải trở thành 1 lực lượng to lớn, vững chắc trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc, phải là người tiếp sức CM cho thế hệ thanh niên già, … là người xung phong trong công cuộc phát triển KT và văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng CNXH.

Việc xây dựng con người mới XHCN là nhiệm vụ rất quan trọng và rất cần thiết.Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình, kết hợp với lý luận CM, từ rất sớm, HCM đã nhận thức rõ rằng, 1 dân tộc dốt là 1 dân tộc yếu.Do vậy, ngay từ những ngày đầu mới thành lập chính quyền CM, Người đã coi việc xóa mù chữ, tiêu diệt giặc dốt và nâng cao dân trí là nhiệm vụ thứ 2 trong số 6 nhiệm vụ cấp bách của đất nước lúc bấy giờ.Bởi vậy, dù bận trăm công nghìn việc, Người vận thường xuyên quan tâm và chăm lo sự nghiệp giáo dục của nước nhà, coi giáo dục XHCN là phương thức quan trọng nhất của sự nghiệp trồng người XHCN, là 1 mắt xích không thể thiếu trong chiến lược bồi dưỡng thế hệ trẻ, xây dựng con người mới XHCN.Người dành sự quan tâm đặc biệt đến SV và học sinh.Để xứng đáng là thế hệ CM của đời sau, HCM đòi hỏi phải ra sức học tập: học tập trong nhà trường, trong gia đình và ngoài XH; học tập qua sách vở và từ chính thực tiễn cuộc sống.Học không phải để làm quan như trong XH cũ, mà là “Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu nước mạnh, tức là để làm tròn nhiệm vụ người chủ của nước nhà ”.Người đòi hỏi thế hệ trẻ phải luôn tự rèn luyện, tu dưỡng trong thực tiễn nhằm xây dựng, phát triển các phẩm chất, năng lực cần thiết để sau này có thể cống hiến được nhiều nhất cho quê hương, cộng đồng và XH.Theo người, việc tự rèn luyện, tu dưỡng đó cần tuân theo nguyên tắc nhất quán: điều gì phải thì cố làm cho kỳ được; điều gì trái thì hết sức tránh, dù nó là nhỏ.

Chủ tịch HCM nhiều lần khẳng định, muốn xây dựng CNXH, trước hết phải có những con người XHCN.Muốn làm tròn trọng trách người chủ tương lai của đất nước, thế hệ trẻ phải được giáo dục, bồi dưỡng 1 cách thường xuyên, khoa học và toàn diện.Người chỉ rõ: “Việc xây dựng con người cũng phải có ý định rõ ràng như nhà kiến trúc” và yêu cầu: “Phải chú trọng đủ các mặt, đạo đức CM, giác ngộ XHCN, văn hóa, kỹ thuật, lao động và SX”, trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt mà phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các Vấn đề do CM nước ta đề ra, trong thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học kỹ thuật.Có như vậy, họ mới hội đủ các phẩm chất, năng lực cần thiết, cả trí tuệ lẫn bản lĩnh CT, cả về nhân cách, đạo đức lẫn sức khỏe, để đáp ứng những yêu cầu của công cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng CNXH.Theo đó, việc bồi dưỡng thế hệ trẻ cần tập trung vào những nội dung sau:

+ Một là, bồi dưỡng đạo đức CM: Theo HCM, trong việc bồi dưỡng thế hệ trẻ, nội dung quan trọng hàng đầu là xây dựng đạo đức CM, giáo dục tư tưởng XHCn và gột rửa chủ nghĩa cá nhân.Không phải ngẫu nhiên mà Người đặt tư cách đạo đức của người cách mạng là nội dung trước tiên của tác phẩm Đường kách mệnh.Tư tưởng của Người về đạo đức CM chứa đựng nhân sinh quan và giá trị quan hết sức sâu sắc đối với việc xác lập nhân cách, lý tưởng cũng như chuẩn mực lối sống cho thế hệ trẻ.Đạo đức CM là đạo đức mới, là phẩm chất không thể thiếu và là cái gốc của con người XHCN.Bởi “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.Người CM phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.Theo Người, nội dung cốt lõi nhất của đạo đức CM là cần, kiệm, liêm, chính.Những phẩm chất này giống như 4 mùa của trời đất, nếu thiếu 1 trong 4 phẩm chất đó thì con người không thể trở thành người theo đúng nghĩa.Nhưng đạo đức CM không phải là cái có sẵn, không phải từ trên trời rơi xuống, mà là kết quả của sự đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày của mỗi người.Do vậy, Người cho rằng, đối với thế hệ trẻ, phải luôn nổ lực rèn luyện đạo đức CM: thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; sống trong sạch, có chí tiến thủ và đoàn kết, không kêu ngạo; tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân; phê phán những thói hư, tật xấu; thường xuyên tiến hành phê bình và tự phê bình… để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

+ Hai là, bồi dưỡng tri thức lý luận và văn hóa, khoa học – kỹ thuật: Theo HCM, thanh niên phải vừa có đức vừa có tài.Bởi vì, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó; người có tài mà không có đức sẽ trở nên vô dụng.Hơn nữa chính sự dốt nát là 1 trong những nguyên nhân cơ bản kìm hãm sự phát triển: “Dốt thì dại, dại thì hèn”.Vì vậy, để trở thành người có trí tuệ, có tri thức, tức là có tài, bên cạnh việc trau dồi đạo đức CM, thanh niên còn phải hăng hái học tập, trong đó có học tập lý luận của CN Mác – Lênin là nhằm trang bị và nâng cao trình độ lý luận CM – ngọn đèn pha soi sáng cho hoạt động thực tiễn.Cùng với việc học tập lý luận CM, các thế hệ trẻ còn phải tích cực học tập văn hóa, khoa học – kỹ thuật…; sử dụng những tri thức đó để xây dựng XH mới.Chủ tịch HCM cho rằng, nhiệm vụ này quan trọng hơn bao giờ hết, bởi chúng ta đi lên CNXH từ 1 nước nông nghiệp lạc hậu.Cụ thể hóa mục tiêu, nội dung giáo dục phù hợp với từng cấp học.Người viết “ Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta… Trung học thì cần đảm bảo cho học trò nhưng tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà… Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công”.

+ Ba là, bồi dưỡng thể chất: HCM đặc biệt quan tâm đến sự phát triển toàn diện của thanh, thiếu niên và nhi đồng VN, trong đó có sự phát triển về mặt thể chất.Theo Người, việc giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, thực hiện đời sống mới… tất thảy đều phải có sức khỏe thì mới thành công.Bởi vì, “mỗi 1 người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi 1 người dân mạnh khoẻ, tức là cả nước yếu ớt, mỗi 1 người dân mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh khỏe”.Với tinh thần đó, Người đã tự mình nêu gương sáng về rèn luyện thể dục, thể thao; đồng thời, kêu gọi tất cả mọi người, dù gái hay trai, già hay trẻ, đều phải thường xuyên rèn luyện thân thể, coi luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe vừa là trách nhiệm, vừa là bổn phận của mỗi người dân yêu nước.Đặc biệt, đối với thanh niên, Người mong muốn họ phải có sức sống dẻo dai, thể chất cường tráng, tinh thần mạnh mẽ và nghị lực lớn.

Vấn đề 21: Quan điểm tự lực cánh sinh trong tư tưởng HCM.

Quan điểm tự lực cánh sinh trong tư tưởng HCM được thể hiện chủ yếu trong tư tưởng về con đường cách mạng giải phóng dân tộc; về sự kết hợp giữa gsức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại như là một trong những biện pháp, phương pháp, yêu cầu trong xây dựng, kiến thiết đất nước đặc biệt là trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Quan điểm này được hình thành dựa trên cơ sở sâu xa là sự tiếp thu từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng như những bài học kinh nghiệm được rút ra từ các phong trào yêu nước Việt Nam xét ở góc độ là đường lối cứu nước; ngoài ra cần khẳng định quan điểm tự lực cánh sinh trong tư tưởng HCM được hình thành trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc tư tưởng tinh hoa của nhân loại trong đó cơ sở lý luận giữ vai trò quyết định là chủ nghĩa Mác – Lênin với quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; “sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân” – Mác.

Chúng ta biết rằng ngay từ Đại hội V Quốc tế cộng sản (1924), Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa…” và “vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới tùy thuộc phần lớn vào các thuộc địa”.

Dựa vào quan điểm của Mác: “sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, năm 1921, trong Tuyên ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đi đến kết luận: “Hỡi anh em các dân tộc thuộc địa!…công cuộc giải phóng anh, em (nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.

Người còn nói: “Những lới tuyên bố tự do của các nhà tư bản trong lúc chiến tranh thật ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc.Và muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”.

Trên cơ sở vạch rõ tính tất yếu của bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”, HCM kết luận tự lực cánh sinh là phương châm chiến lược rất quan trọng của bạo lực cách mạng.Vì thế, Người luôn nêu cao khẩu hiệu “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mạnh là chính”; “muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình”.Trong bài nói tại Hội nghị chiến tranh du kích, tháng 7/1952, HCM nói: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”, cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác.

Theo tư liệu Bộ quốc phòng Việt Nam, thì trong thư đề ngày 10/8/1949 gửi Trung ương Đảng Công sản Trung Quốc, Trung ương Đảng ta viết: Muốn chuyển giai đoạn chiến lược, giành thắng lợi cuối cùng, cố nhiên chúng tôi phải tự tin vào sức mình, nhưng chúng tôi cũng cần sự giúp đỡ bên ngoài.Đứng trước những khó khăn về kỹ thuật mà điều kiện kinh tế cho phép vượt qua, đứng trước tình hình gấp rút, phải tranh thủ thời gian với địch, đứng trước những nhiệm vụ chiến thuật phải làm để chuyển sang chiến lược mới, chúng tôi không thể không yêu cầu các đồng chí giúp chúng tôi súng, đạn, dụng cụ, cán bộ…Trong những khoản chúng tôi yêu cầu, các khoản nào các đồng chí không giúp được, xin các đồng chí chuyển lời đề nghị của chúng tôi cho Liên Xô và nói hộ những khó khăn của chúng tôi cho các đồng chí Liên Xô rõ…

Với quan điểm ấy, khi Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến trong tình trạnh “tứ cố vô thân”, hơn vao giờ hết, tự lực cánh sinh lúc này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.Kết quả của tư tưởng đó, như chính HCM đã tổng kết trong Bài nói chuyện với các thân sĩ trí thức phú hào tỉnh Thanh Hóa, ngày 20/2/1947: “Ta phải làm tự cấp tự túc, dù nó phong tỏa 10 năm, 15 năm ta cũng không sợ”.Hay trong “Thư gửi quân và dân Tây Bắc”, ngày 21/11/1953, HCM viết: “kháng chiến của ta nhất định thắng lợi, nhưng phải trường kỳ, gian khổ, tự lực cánh sinh”.

Như vậy, có thể khẳng định rằng: “lấy sức ta mà giải phóng cho ta, dựa vào sức mình là chính”, tự lực cánh sinh kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một quan điểm nhất quán, là một nội dung tất quan trọng trong tư tưởng HCM về cách mạng giải phóng dân tộc.Ngay cả khi chúng ta đã tranh thủ được sự đoàn kết quốc tế với sự giúp đỡ và ủng hộ về vật chất và tinh thần, thì tư tưởng trên của HCM vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa cự kỳ quan trọng của nó.\

Khi miền Bắc bước vào giai đoạn xây dựng CNXH, HCM hết sức chú trọng đến Vấn đề đào tạo “con người” có tinh thần tự lực cánh sinh.Người chỉ rõ trong buổi nói chuyện tại Hội nghị Ngoại giao lần 3 (tháng 1/1964), những phẩm chất đòi hỏi mỗi cán bộ ngoại giao phải có.Đó là: “Một là phải có quan điểm và lập trường của Đảng làm kim chỉ nam.Hai là phải có tư cách đạo đức tốt, không để cá nhân lên trên lợi ích chung.Ba là về phương pháp công tác phải thận trọng, cảnh giác và giữ bí mật nhà nước.Bốn là phải có tinh thần học hỏi và tự lực cánh sinh, tiết kiệm.Năm là phải học tiếng nước ngoài.Công tác ở nước nào cần học tiếng của nước đó”.

Trong quá trình xây dựng CNXH, HCM luôn nêu cao tinh thần tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè thế giới bên cạnh yếu tố quyết định là nội lực với tinh thần dựa vào sức mình là chính, xem đó như là một biện pháp, yêu cầu để xây dựng thành công CNXH.“Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”.Chiến tranh, ta tiến công kẻ xâm lược; hòa bình, ta tiến công đói nghèo, lạc hậu.“Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!”.

Vấn đề 23: Cở sở phương pháp luận nghiên cứu môn học tư tưởng HCM.

Phương pháp luận là khoa học lý luận về các phương pháp nhận thức và cải tạo thực tiễn.Nghiên cứu môn học tư tưởng HCM dựa trên một số nguyên tắc phương pháp luận dưới đây:

* Đảm bảo sự thống nhất nguyên tắc tính Đảng và tính khoa học

Nghiên cứu môn học tư tưởng HCM phải đứng vững trên lập trường, quan điểm, phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lê nin và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; bảo đảm tính khách quan khi phân tích, lý giải và  đánh giá tư tưởng HCM, tránh việc áp đặt, cường điệu hóa hoặc hiện đại hóa tư tưởng của Người.Tính Đảng và tính khoa học thống nhất với nhau trong sự phản ánh trung thực, khách quan tư tưởng HCM trên cơ sở lập trường, phương pháp luận và định hướng chính trị nghiên cứu đúng đắn.

* Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn với thực tiễn.

Trong “Diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa I trường Nguyễn Ái Quốc”, ngày 7/9/1957, HCM viết: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”.Đây là một trong những yếu tố góp phần làm cho tư tưởng của Người có sức sống trường tồn và sức mạnh cải tạo vĩ đại.

Cũng trong bài diễn văn trên, HCM nói: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”, “Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước”.Còn “Thực tế là các Vấn đề mình phải giải quyết, là mâu thuẫn của sự vật.Chúng ta là những người cán bộ cách mạng, thực tế của chúng ta là những Vấn đề mà cách mạng đề ra cho ta giải quyết.Thực tế bao gồm rất rộng.Nó bao gồm kinh nghiệm công tác và tư tưởng của cá nhân, chính sách và đường lối của Đảng, kinh nghiệm lịch sử của Đảng cho đến các Vấn đề trong nước và trên thế giới”.

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, tháng 10/1947 ký tên X.Y.Z, xuất bản đầu tiên năm 1948, HCM viết: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận.Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế.Đó là lý luận, chân chính”.Cũng trong tác phẩm này, HCM đánh giá rất cao vai trò của lý luận trong mối quan hệ với thực tiễn: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong cộng việc thực tế” và “không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”, “Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng một mắt mờ”; “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng.Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.Vì thế mà Người luôn nhấn mạnh: “Lý luận phải liên hệ với thực tế”, “lý luận và thực hành phải luôn đi đôi với nhau”, “phải gắn liền lý luận với công tác thực tế”, “lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế.Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông”.

Tuy nhiên, HCM luôn chỉ rõ “lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo; lý luận luôn được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ thực tiễn sinh động”.

* Quan điểm lịch sử – cụ thể

Cùng với chủ nghĩa duy vật biện chúng, chúng ta cần vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu, học tập môn tư tưởng HCM.

Tư tưởng HCM là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử cụ thể, phản ánh tính hiện thực lịch sử và chịu sự chi phối của điều kiện lịch sử.Vì thế, luôn đặt quan điểm, luận điểm của HCM trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể, xem xét những quan điểm của HCM trong mối quan hệ biện chứng với thực tiễn cuộc sống, liên tục vận động và phát triển không ngừng tương tác với những điều kiện và hoàn cảnh nhất định.

* Quan điểm toàn diện và hệ thống

Phải nhìn sự vật toàn diện, bao quát, luôn luôn quán triệt mối liên hệ qua lại của các yếu tố, các bộ phận khác nhau trong sự gắn  kết tất yếu của hệ thống tư tưởng HCM quanh hạt nhân cốt lõi là tư tưởng độc lập, tự do, dân chủ và CNXH.Đồng thời tránh bỏ sót việc lớn, cơ bản, ảnh hưởng đến đại cục; phải xem xét sự vật trong quá trình phát sinh, phát triển, và đặt sự vật trong tổng thể, trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau.Việc học tập, nghiên cứu tư tưởng HCM luôn quán triệt quan điểm của Người là nhất quán trong một hệ thống tư tưởng chặt chẽ.

* Quan điểm kế thừa và phát triển

Quán triệt quan điểmcủa HCM: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.Quan điểm này của HCM được biết đến vào ngày 31/5/1946.Trong quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng HCM theo quan điểm kế thừa và phát triển, chú ý vận dụng tinh thần và phương pháp của Người để nhận thức và hành động đúng quy luật, giải quyết những Vấn đề mới do cuộc sống đặt ra.Cuộc sống vận động không ngừng, phải nắm bắt đúng tình hình thực tế trong nước và thế giới để vận dụng và phát triển tư tưởng HCM trong điều kiện lịch sử mới, trong bối cảnh cụ thể của đất nước và quốc tế.

* Kết hợp nghiên cứu các tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách mạng của HCM

Nghiên cứu tư tưởng HCM không chỉ căn cứ vào các tác phẩm, bài viết, bài nói mà cần coi trọng hoạt động thực tiễn của Người, thực tiễn cách mạng dưới sự tổ chức và lạnh đạo của Đảng do Người đứng đầu.Hành động thực tiễn, chủ nghĩa anh hùng cách mạnh trong chiến đấu và xây dựng của nhân dân Việt Nam theo tư tưởng HCM cũng chính là lời giải thích rõ ràng giá trị khoa học của tư tưởng HCM.

Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo.Sự sáng tạo cách mạng của HCM trước hết là sự sáng tạo về tư duy lý luận, về chiến lược về đường lối cách mạng Việt Nam.

Vấn đề 24: Cơ sở khách quan và những nhân tố chủ quan hình thành tư tưởng HCM.

Không một tư tưởng nào lại ra đời trên một mảnh đất trống không mà bao giờ nó cũng ra đời trên một mảnh đất hiện thực.Trên mảnh đất hiện thực, nó kế thừa những gì có giá trị, hợp lý đồng thời chọn lọc và bổ sung vào đó những nhân tố mới.Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong sự quy định ấy.Nó được hình thành dựa trên những cơ sở khách quan, chủ quan nhất định.

1.Bối cảnh lịch sử – xã hội ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thế giới chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại, phản ánh xu hướng biến động đầy kịch tính của xã hội loài người.Các nước đế quốc chủ nghĩa hầu như đã phân chia xong thị trường thế giới.Đa số các quốc gia phong kiến phương Đông, các nước lạc hậu ở châu Phi, châu Mỹ Latinh đã bị xâm chiếm làm thuộc địa, những mâu thuẫn lớn của thời đại ngày càng gay gắt như: Mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản ở các nước đế quốc, mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân, mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến,… những mâu thuẫn đó tích tụ lại tạo thành thời kỳ bão táp cách mạng và chiến tranh ở những năm đầu của thế kỷ XX, mở đầu là thắng lợi rực rỡ của Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917.Trước đó, nhiều phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và lệ thuộc đã diễn ra mạnh mẽ và liên tục, nhất là ở các nước thuộc địa phương Đông.Tuy nhiên, các phong trào đó đều thất bại vì người lãnh đạo phần lớn thuộc về giai cấp địa chủ phong kiến, số ít là lãnh tụ nông dân và sau đó thuộc giai cấp tư sản dân tộc; Vì mục tiêu của phong trào chỉ hướng vào mục tiêu dân tộc, ít nhằm vào mục tiêu dân chủ và không nhằm mục tiêu giải phóng triệt để nhân dân lao động; vì đường lối không đúng nên không thu hút được sức mạnh của cả dân tộc…

Sự thất bại của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc cũng như sự thành công của Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga  đã chỉ ra rằng: Ở những năm đầu thế kỷ XX, chỉ có những phong trào cách mạng nào có mục tiêu giải quyết đồng thời những mâu thuẫn lớn của thời đại ở nước mình thì mới có thể đi tới thắng lợi.Một cuộc cách mạng như vậy chỉ có thể do giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản đứng ra lãnh đạo và tổ chức dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Việt Nam, một quốc gia phong kiến nhỏ bé và lạc hậu ở Đông Dương, cũng không thoát khỏi thân phận là thuộc địa của thực dân Pháp.Sau Cách mạng tháng Mười Nga, Việt Nam cũng là nơi hội tụ hầu hết những mâu thuẫn lớn của thời đại.Phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam cũng liên tiếp nổ ra nhưng đều lần lượt thất bại vì bế tắc về đường lối, khủng hoảng về lực lượng lãnh đạo có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của lịch sử.Nhưng cũng vì vậy mà tư tưởng chống Pháp và nguyện vọng giải phóng dân tộc ngày càng trở nên tha thiết mãnh liệt, nhất là đối với những tầng lớp trí thức mới, có lòng yêu nước nồng nàn.Tuy nhiên tất cả những con đường giải phóng dân tộc mà họ tìm kiếm vẫn chưa thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn trước đây.

Trong bối cảnh lịch sử ấy của đất nước và của thời đại, Hồ Chí Minh đã nhận sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc, thực hiện dân chủ, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, theo con đường mà Cách mạng tháng Mười Nga đã vạch ra.Hoàn cảnh lịch sử với yêu cầu cách mạng ấy là điều kiện đầu tiên quy định mục tiêu, khơi nguồn động lực cho việc hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.

HCM sinh ra ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An – một vùng quê giàu truyền thống yêu nước, thương người.Thuở niên thiếu, HCM được ông ngoại, cha và các cụ đồ nho nổi tiếng rèn dủa lịch sử dân tộc, hun đúc truyền thống bất khuất, yêu nước thương dân, căm ghét sự bất công, tàn bạo.Cuộc sống vất vả ở quê hương đã nuôi dưỡng những tình cảm ban đầu về gia đình, quê hương, đất nước.Sang tuổi thanh niên, phần lớn thời gian HCM sống cùng cha ở kinh thành Huế, theo học ở trường Quốc học Huế.Ở đâu, Người cũng tận mắt chứng kiến sự bóc lột dã man, tàn bạo của thực dân Pháp, sự thối nát hèn hạ của triều đình nhà Nguyễn.Ở đâu, Người cũng nhìn thấy nỗi đau mất nước đầy ắp trong tâm khảm mỗi người Việt Nam yêu nước.Người còn chứng kiến tận mắt sự thất bại liên tiếp của các cuộc khởi nghĩa chống Pháp lúc bấy giờ.

Thực tế cuộc sống đã thúc đẩy HCM tích lũy thêm những kiến thức khác nhau, sàng lọc những tư tưởng tiến bộ, loại bỏ dần những tư tưởng lạc hậu, lỗi thời, nhất là sau khi được tiếp xúc với những tư tưởng mới của các nhà cải cách Trung Quốc như Lương Khải Siêu, Tôn Trung Sơn,…Có lẽ đó cũng là cái cầu nối khiến Người lưu ý đến cá nhà triết học khai sáng Pháp với khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái”.Với vốn kiến thức thực tế và tri thức mới, HCM không đồng ý đi theo con đường “bạo động”, “duy tân”,…mà quyết định tìm con đường khác cứu dân, cứu nước.HCM quyết định sang Pháp để thực hiện mục tiêu đó.Măm 1911, với hai bàn tay trắng, Người lên một chuyến tàu buôn sang Pháp.Đó là quyết định sáng suốt của HCM, mở ra một tiền đề mới của lịch sử tư tưởng giái phóng dân tộc Việt Nam.

Trải qua một thời kỳ gần suốt mười năm cật lực lao động để kiếm sống, tận tâm học hỏi, nghiên cứu suy ngẫm những thành tựu mới của tri thức nhân loại ở nhiều nước, cũng như tích cực tham gia vào thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân ở chính quốc và các nước thuộc địa.Sự kiện đầu tiên xác định cột mốc thời gian Người bắt đầu bước lên vũ đài chính trị của thế giới là vào năm 1919, khi Người gửi bản yêu sách gồm tám điểm đến Hội nghị Vécxây đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tụ do dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.Nhưng không được chấp thuận.Từ đó, HCM rút ra kết luận chính trị quan trọng: “Những lời tuyên bố tự do của các nhà tư bản trong lúc chiến trang thật ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc.Và muốn được giải phóng, các dân tộc chí có thể trong cậy vào mình, trong cậy vào lực lượng của bản thân mình”.Người Việt Nam phải tự giải phóng mình.Phải đấu tranh để tự giải phóng là tư tưởng hết sức đúng đắn của HCM.Nhưng tự giải phóng bằng con đường nào thì lúc bấy giờ vẫn chư tìm ra.Vì vậy mà khát vọng phải tìm cho được con đường cứu nước, cứu dân ở HCM ngày càng trở nên cháy bỏng.

Chính khát vọng ấy đã dẫn HCM đến với bản Sơ thảo những luận cương về Vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin.Từ bản luận cương ấy, người đã tìm thấy ánh sáng và đường lối cách mạng đún đắng giải phóng dân tộc Việt Nam.Sau này, người nhắc lại cảm tưởng của mình: “Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu.Nhưng cứ đọc đi, đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính.Luận cương của Lênin làm tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên.Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta.Đây là con đường giải phóng chúng ta”.Tứ đó, “Người hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế III.Người say mê nghiên cứu các tác phẩm của Mác và Lênin.Tác phẩm Tư bản của Các Mác là cuốn sách gối đầu giường của Người.

Các yếu tố thuộc về hoàn cảnh lịch sử – xã hội kể trên đã trở thành những tiền đề cần thiết khách quan đầu tiên quy định sự hình thành tư tưởng HCM.Tuy nhiên, việc hình thành tư tưởng HCM còn phải kể đến các yếu tố với tư cách l;à cơ sở khách quan cho sự ra đời của một hệ thống tư tưởng vĩ đại HCM.

2.Những tiền đề tư tưởng – lý luận:

Một là, tinh hoa văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.

HCM là một trong những người con ưu tú của dân tộc.Trong mấy nghìn năm phát triển của lịch sử, dân tộc Việt Nam đã tạo ra anh hùng thời đại – HCM người anh hùng dân tộc.Tư tưởng HCM, trước hết bắt nguồn từ truyền thống của dân tộc, là sự kế thừa và phát triển của các giá trị văn hóa dân tộc.Trong đó chú ý đến các giá trị tiêu biểu.

* Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước đã hình thành cho dân tộc Việt Nam các giá trị truyền thồng phong phú, bền vững.Đó là ý thức về chủ quyền quốc gia dân tộc, tự lực, tự cường, yêu nước…tạo động lực mạnh mẽ của đất nước.

* Tinh thần nhân nghĩa và truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái trong khó khăn, hoạn nạn.

* Truyền thống lạc quan yêu đời, niềm tin vào chính mình, tin vào sư tất thắng của chân lý và chính nghĩa dù phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian khổ.

* Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi, mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa bên ngoài làm giàu cho văn hóa Việt Nam.Chính nhờ tiếp thu truyền thống của dân tộc mà HCM đã tìm thấy con đường đi cho dân tộc như Người đã nói “lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã giúp tôi tin theo Lênin và đi theo Quốc tế III”.

Hai là, tinh hoa văn hóa nhân loại

Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, HCM đã được trang bị hấp thụ nền Quốc học và Hán học khá vững vàng, chắc chắn.Trên hành trình cứu nước, Người đã tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vốn sống, vốn kinh nghiệm để làm giàu tri thức của mình và phục vụ cho cách mạng Việt Nam.

Thứ nhất, văn hóa phương Đông: Người đã tiếp thu tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo và tư tưởng tiến bộ khác của văn hóa phương Đông.Có thể nói tiếp thu, chắt lọc tinh hoa tư tưởng văn hóa phương Đông đã tạo nên những đặc sắc trong tư tưởng HCM.

* Nho giáo nói chung và Khổng giáo nói riêng là khoa học về đạo đức và phép ứng xử, tư tưởng triết lý hành động, lý tưởng về một xã hội bình trị.Đặc biệt Nho giáo đề cao văn hóa, lễ giáo và tạo ra truyền thống hiếu học trong dân.Đây là tư tưởng tiến bộ hơn hẳn so với các học thuyết cổ đại.Tuy nhiên, HCM cũng phê phán Nho giáo có tư tưởng  tiêu cực như bảo vệ chế độ phong kiến, phân chia đẳng cấp – quân tử và tiểu nhân, trọng nam khinh nữ, chỉ đề cao nghề đọc sách.HCM đã chịu ảnh hưởng của Nho giáo rất nhiều dựa trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.Người viết: “Truy Khổng tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”.

* Phật giáo vào Việt Nam từ sớm và có ảnh hưởng rất mạnh đối với Việt Nam.Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái “lấy đức báo oán”.Phật giáo có tư tưởng bình đẳng, dân chủ hơn so với Nho giáo, “con người ta khi mới sinh ra không có ai mang sẵn dấu nô lệ ở trên trán”, “mọi người đều có dòng máu đỏ”.Phật giáo củng đề cao nếp sống đạo đức, trong sạch, chăm làm điều thiện, coi trọng lao động.Phật giáo với dân, hòa vào cộng đồng chống kẻ thù chung của dân tộc là chủ nghĩa thực dân.

Tư tưởng dân chủ tiến bộ như chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn có ảnh hưởng đến tư tưởng HCM, vì Người tìm thấy những điều phù hợp với điều kiện của cách mạng nước ta.HCM là nhà mác – xít tỉnh táo và sáng suốt, biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng văn hóa phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp của cách mạng Việt Nam.

Thứ hai, văn hóa phương Tây:

* HCM chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây như: tư tưởng tự do, bình đẳng trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại cách mạng Pháp năm 1791, tư tưởng dân chủ, về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776.Trước khi ra nước ngoài, Bác đã nghe thấy ba từ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái.Lần đầu sang Pháp HCM đã thể hiện bản lĩnh, nhân cách, phẩm chất cao thượng, tư duy độc lập tự chủ.Người đã nhìn thấy mặt trái của “lý tưởng” tự do, bình đẳng, bác ái.Người cũng tiếp thu tư tưởng của những nhà khai sáng Pháp như Voltaire, Rousso, Montesquieu…

* Thiên chúa giáo là tôn giáo lớn của phương Tây, HCM quan niệm Tôn giáo là văn hóa.Điểm tích cực nhất của Thiên chúa giáo là lòng nhân ái.HCM tiếp thu có chọn lọc tư tưởng văn hóa Đông – Tây để phục vụ cho cách mạng Việt Nam.Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những hiểu biết quý báu của các đời trước để lại”.HCM viết: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả.Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng.Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta.Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu hạnh phúc cho loài người, cho xã hội.Nếu nay họ nhất định sống chung với nhau hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.Tôi cố gằng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”.

Ba là, chủ nghĩa Mác – Lênin cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng HCM

Chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất của tư tường HCM và tư tưởng của Người góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác – Lênin ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập, tự do.Người nói: “Chủ nghĩa Mác – Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới CNXH và chủ nghĩa cộng sản”.Vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin thể hiện:

* Quyết định bản chất thế giới quan khoa học của tư tưởng HCM.

* Quyết định phương pháp hành động biện chứng của HCM.

* Tư tưởng HCM là chủ nghĩa Mác – Lênin được vận dụng sáng tạo ở Việt Nam, là tư tưởng Việt Nam thời hiện đại.

Sự vận dụng và phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin ở HCM nổi lên một số điểm đáng chú ý sau đây:

* Khi ra đi tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã có một vốn học vấn vững chắc, một năng lực trí tuệ sắc sảo, Người đã phân tích, tổng kết các phong trào yêu nước Việt Nam, chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; Người tự hoàn thiện vốn văn hóa, vốn chính trị, vốn sống thực tiễn phong phú nhờ đó Người đã tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin như một lẽ tự nhiên “tất yếu khách quan và phù hợp với quy luật”.

Chủ nghĩa Mác – Lênin là bộ phận văn hóa đặc sắc nhất của nhân loại: tinh túy nhất, cách mạng nhất, triệt để nhất là khoa học nhất.

* Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là tìm con đường giải phóng cho dân tộc.Người hồi tưởng lần đầu tiếp xúc với chủ nghĩa Lê nin, “khi ấy ngồi một mình trong phòng mà tôi nói to lên như đang đứng trước đông đảo quần chúng: hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta”.

* Người vận dụng Chủ nghĩa Mác – Lênin thep phương pháp mác xít và theo tinh thần phương Đông, không sách vở, không kinh viện, không tìm kết luận có sẵn mà tự tìm ra giải pháp riêng, cụ thể cho cách mạng Việt Nam.Chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở chủ yếu nhất hình thành tư tưởng HCM.

3.Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất, năng lực cá nhân của HCM.

* HCM có tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, có óc phê phán tinh tường và sáng suốt trong việc nghiên cứu tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới.

* HCM không ngừng học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức văn hóa phong phú của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của các phong trào giải phóng dân tộc.Chính nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí tuệ của HCM đã giúp Người đến với chủ nghĩa Lác – Lênin và tiếp thu được các giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại.

* HCM là người có ý chí mạnh mẽ – người có chí lớn.

* HCM là người luôn thể hiện đạo đức cách mạnh trong sáng: có tâm hồn của một người yêu nước vĩ đại một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng; một trái tim yêu thương nhân dân, thương người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.HCM từ một người tìm đường cứu nước đã trở thành người dẫn đường cho cả dân tộc đi theo.Khả năng tư duy, trí tuệ, nhân cách, phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn của HCM đã tác động rất lớn đến việc hình thành và phát triển tư tưởng của Người.

Tóm lại, tư tưởng HCM là sản phẩm tổng hòa của những điều kiện khách quan và chủ quan, của truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hóa văn hóa nhân loại.Cùng với thực tiễn dân tộc và thời đại được HCM tổng kết, chuyển hóa sắc sảo, tinh tế với một phương pháp khoa học, biện chứng, tư tưởng HCM đã trở thành tư tưởng Việt Nam hiện đại.

Tagged:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *